Tư tưởng chính trị của Lão Tử và việc vận dụng ở Việt Nam
Chủ Nhật, 13 tháng 11, 2016
Tư tưởng chính trị của Lão Tử và việc vận dụng ở Việt Nam
Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử Trung Quốc cổ đại, Lão Tử lần đầu tiên dùng hình thức tư duy lý luận sáng lập hệ thống lý luận tư tưởng chính trị, triết học rất hoàn chỉnh, trở thành vị thuỷ tổ của phái Đạo gia.
Là nhà tư tưởng lớn thời Xuân Thu, Lão Tử còn được xem là người khơi sáng cho Bách Gia Chư Tử, học thuyết và tư tưởng chính trị của Lão Tử có ảnh hưởng sâu sắc đối với các học phái như Nho, Mặc, Pháp, Hình, Danh… Người ta xem Lão Tử là chủ cán trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại và tư tưởng chính trị của ông vẫn có một vị trí ảnh hưởng nhất định đến ngày nay.
Bao trùm tư tưởng chính trị của ông được thể hiện ở phương pháp cai trị “vô vi nhi trị”, tuy có nhiều mặt hạn chế hơn là tích cực nhưng phương pháp “vô vi” của ông vẫn có những nhân tố hợp lý cần được đánh giá và nghiên cứu một cách có hệ thống….
Nâng cao năng lực, hiệu lực quản lý Nhà nước ở Việt Nam hiện nay là một vấn đề rất cấp thiết được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm: Về mặt khoa học điều này đặt ra nhu cầu phải có sự nghiên cứu theo chiều hướng khác nhau để đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện việc quản lý Nhà nước ở nước ta.
Thiết nghĩ rằng trong quá trình đó, chúng ta không chỉ quan tâm đến các lý thuyết, quan điểm khoa học hiện đại về quản lý nhà nước mà còn phải quan tâm đến các tư tưởng truyền thống về quản lý Nhà nước trong tư tưởng chính trị và triết học Trung Quốc cổ đại. Hiện nay các nhà tư tưởng lớn Trung Quốc cổ đại như: Khổng Tử, Mặc Tử, Hàn Phi Tử… thu hút sự quan tâm rộng rãi của các nhà khoa học trên thế giới khi khai thác tư tưởng về quản lý Nhà nước của các nhà tư tưởng này để rút ra những kinh nghiệm cho công cuộc quản lý Nhà nước trong xã hội hiện đại và Lão Tử cũng nằm trong số đó.
Chính vì lý do nói trên, việc khai thác một số hạt nhân hợp lý về cách quản lý Nhà nước trong tư tưởng Lão Tử để rút ra một số kinh nghiệm cho việc quản lý Nhà nước ở Việt Nam hiện nay là có ý nghĩa cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn.
Từ hai ý lớn đã nói ở phần trên thì đó chính là lý do để em chọn đề tài này.
2. Tình hình nghiên cứu.
Trong nhiều năm qua ở Việt Nam đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về tư tưởng chính trị và tư tưởng về quản lý Nhà nước. Tuy những công trình nghiên cứu đó chỉ hệ thống một cách khái quát về hai phương diện trên mà không đi sâu vào từng nội dung: có thể kể đến các cuốn sách: Lão Tử - Đạo đức kinh (Nguyễn Hiến Lê); Lão Tử - Tư tưởng và sách lược (Trí tuệ); Lão Tử tinh hoa (Thu Giang - Nguyễn Duy Cần)…
Do là một sinh viên, lần đầu tiên được nghiên cứu vấn đề lý luận nên kiến thức và thời gian còn hạn chế. Vì lý do đó bài viết tiểu luận này em cũng chỉ xin được đi vào khái quát nội dung tư tưởng chính trị và giá trị về quản lý Nhà nước của Lão Tử, để rút ra một hạt nhân hợp lý vận dụng vào việc quản lý Nhà nước Việt Nam hiện nay.
3. Mục tiêu của đề tài.
Luận giải và khái quát nội dung tư tưởng chính trị của Lão Tử và giá trị tư tưởng về quản lý Nhà nước của Lão Tử để vận dụng một số hạt nhân hợp lý vào việc quản lý Nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Đó là mục tiêu chính của đề tài này.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Nội dung tư tưởng chính trị của Lão Tử có nhiều nội dung tiêu cực và có một số nội dung tích cực. Tư tưởng về quản lý Nhà nước của ông cũng tương tự. Do vậy khi nghiên cứu đề tài, chúng ta phải đứng trên quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với logic, gạt bỏ những cạn bã phong kiến tiếp thu những tinh hoa mang tính dân chủ, kế thừa những tư tưởng truyền thống một cách có phê phán, chống tư tưởng phục cổ.
5. Kết cấu đề tài.
Đề tài gồm 24 trang ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài gồm có 2 nội dung chính:
I. Tư tưởng chính trị của Lão Tử.
II. Khả năng kế thừa và phát triển tư tưởng của Lão Tử về quản lý nhà nước, vận dụng vào Việt Nam.
B. Phần nội dung
I. Tư tưởng chính trị của Lão Tử.
1. Lão tử.
1.1. Vài nét về thân thế và sự nghiệp
Về thân thế sự nghiệp của Lão Tử, sử sách ghi lại không nhiều, ngoài sách “Sử ký Lão Tử truyện” có ghi chép tương đối đầy đủ, các sách khác như “Tả truyện”, “Lễ ký”, “Khổng Tử gia ngữ”, “Trang Tử”, “Liệt Tử” chỉ ghi chép lại vụn vặt.
Theo “Sử ký Lão Tử truyện” ghi chép: Lão Tử sống vào khoảng 580 – 500 TCN, họ Lý, tên Nhĩ, tự là Đam, người ở xóm Khúc Nhân, làng Lệ, huyện Khổ, nước Sở thời Xuân Thu. Huyện Khổ thời đó thuộc nước Trần, sau khi nước Sở diệt nước Trần thì nó thuộc nước Sở, ở huyện Lộc ấp, tỉnh Hà Nam ngày nay.
Lão Tử là người sáng lập ra phái Đạo gia, là một nhà tư tưởng lớn, có một tri thức phong phú. ông từng làm quan giữ kho sách dưới triều U Vương nhà Chu.
Ông là người có cái tư tưởng siêu phàm, ông chán ghét danh lợi, chán ghét sự vinh hoa phú quý cùng những cái người ta gọi là văn minh. Ông thích sống cái cuộc đời ẩn khuất.
Theo “Sử ký Tư Mã Thiên”, về đoạn Khổng Tử thế gia và Lão Tử truyện có nói, khi Lão Tử làm quan ở đô thành nhà Chu, Khổng Tử đã gặp Lão Tử một lần, đó là lúc Khổng Tử cùng Nam Kinh Thúc qua nước Chu hỏi lễ ở Lão Tử.
Sau khi trở về nước Lỗ, Khổng Tử đã bảo với đệ tử rằng: “Chim ta biết nó bay như thế nào: Cá ta biết nó lội ra sao; thú ta biết nó chạy cách nào. Thú chạy, thì ta có bẫy bắt nó; Chim bay, thì ta dùng tên bắn nó; Cá lội, ta dùng dây câu cá. Còn rồng, thì ta không biết nó theo mây theo gió mà bay liệng như thế nào. Nay ta tháy Lão Tử như con rồng”.
Lão Tử làm quan tại đô thành nhà Chu thời lâu thấy triều nhà Chu ngày càng suy yếu, đại quyền lọt vào tay các chư hầu, bèn từ chức mà ra đi.
Có thuyết truyền rằng khi Lão Tử bỏ quan triều ra đi, ông cưỡi trâu xanh đi đến cửa Hàm Cốc, quan lệnh Doãn Hy đã gặp và nói với ông: ngài muốn đi ẩn cư xin hãy biên soạn lại bộ sách về học vấn của ngài. Thế là Lão Tử ở lại biên soạn bộ sách “Đạo đức kinh”. Biên soạn xong ông bỏ đó mà đi, không rõ cuộc đời ông về sau ra sao. Vì vậy, không ai biết được Lão Tử chết bao giờ và ở chố nào.
Trong “Thần tiên truyện” có nói về tướng mạo của Lão Tử, thân cao tám thước tám tấc, lông mày vàng, trán rộng, cằm vuông, môi dày, răng sưa, hai sống mũi, ba lỗ tai, mẫu thân mang thai tám mươi mốt năm mới sinh ra, cho nên khi sinh ra tóc đã bạc phơ.
Thuyết truyền là vậy, nhưng thực tế cuộc đời của Lão Tử như thế nào điều đó đến bây giờ vẫn là một ẩn số.
1.2. Tác phẩm.
Lão tử để lại một tác phẩm duy nhất đó là sách “Lão Tử” còn gọi là “Đạo đức Kinh”.
Theo nghiên cứu, có ý kiến cho rằng: “sách đó không phải Lão Đam trước tác, nhưng trên cơ bản đã phản ánh được tư tưởng của Lão Đam, tác giả cuốn Lão Tử này hiện nay chưa được khoả đính, nhưng chắc chắn không phải do một người sáng tác”. Nhưng thực tế tác phẩm “Đạo đức kinh” chủ yếu phản ánh tư tưởng của Lão Tử.
Toàn văn tác phẩm “Lão Tử” gồm 5000 nghìn chữ là kinh điển chủ yếu của phái Đạo gia, là một tác phẩm đồ sộ có ảnh hưởng quan trọng đến xã hội, tư tưởng, văn hoá của Trung Quốc.
Sách gồm 81 chương phân làm 2 thiên: Thiên thượng từ chương I đến chương XXXVII (37), gọi là “đạo Kinh”, thiên hạ từ chương XXXVIII (38) đến chương LXXX (81), gọi là “Đức Kinh” cho nên gọi là “Đạo đức Kinh” và được in thành sách vào giữa thời kỳ chiến quốc.
Năm 1973, tại ngôi mộ cổ số 3 đời Hán gò Mã Vương – Trường Sa – Hồ Nam, đã khai quật được cuốn sách lụa Lão Tử này và được gìn giữ đến ngày nay.
Tác phẩm “Đạo đức Kinh” tuy chỉ có 5000 nghìn chữ nhưng rất sâu sắc bao gồm những nội dung như tư tưởng triết học, khoa học tự nhiên, chính trị quân sự, văn học nghệ thuật… Có tác dụng quan trọng trong sự phát triển của văn hoá Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc trong việc tôi luyện tạo dựng phẩm đức và tính cách tố chất của dân tộc Trung Hoa.
Trong “Đạo đức Kinh”, Lão Tử bàn về chính trị không nhiều, nhưng tương đối có hệ thống. Ông nêu ra lý luận triết học “Đạo pháp tự nhiên”, vận dụng nhuần nhuyễn và nhất quán triết học đó để lý giải lĩnh vực chính trị.
2. Tư tưởng chính trị của Lão Tử.
2.1. Lý luận về đạo pháp tự nhiên.
“Đạo” là phạm trù trung tâm của đạo pháp tự nhiên. Lão Tử quan niệm “Đạo” là bản nguyên của thế giới, nhưng không phải là một thực thể nào đó. Đó là tổng thể của vạn vật, đạo là bản thể của vạn vật, là tổ tông của vạn vật.
“Đạo xung nhi dung chi hoặc bất doanh:
Uyên hề tự vạn vật chi tòng”.
(Đạo thỉtống không, nhưng đổ vô mãi mà không đầy; đạo như vực thẳm, dường như tổ tông của vạn vật).
“Đạo” vô cùng, vô tận, nhìn không thấy, nghe không được, bắt không được, sinh ra vạn vật mà không khoe công lao, vận động không ngừng mà không mỏi mệt, chẳng có tên gọi. “Đạo” là tên gọi mà Lão Tử tạm đặt.
Lão Tử còn cho rằng đạo có trước trời đất, xuất hiện sớm hơn thượng đế, thế giới muôn vật đều là do đạo sinh ra.
“Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh ra vạn vật”2.
(Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh ra muôn vật).
Mặt khác, “đạo” chứa đựng trong đõn phép tắc cấu tạo, biến đổi sinh thành và thực hiện những phép tắc đó mà sinh ra vạn vật như sáng – tối, cương – nhu; hoạ - phúc, xấu - đẹp… những quy tắc tương phản, tương thành vận động ngược chiều, tuần hoàn. “Đạo” được biểu hiện ra bên ngoài là “đức”.
“Đạo” và “đức” là một cặp phạm trù cơ bản của triết học Lão Tử. Lão Tử giải thích “đạo” là “chỗ chứa sâu kín của vạn vật”, “đức” là “dáng đức lớn, theo cùng với đạo”.
Quan hệ giữa “đạo” và “đức” là: Đạo là gốc, “đức” là công cụ; “đạo” quyết định “đức”, “đức” làm sáng tỏ “đạo”. Đạo là nhận thức luậnvà phương pháp luận của Lão Tử, đức là chính trị quan và lịch sử quan của Lão Tử.
Như vậy, đạo pháp trị tự nhiên là vốn có, vô tư, tự tác động mà biến hoá, không cần sự tác động từ bên ngoài. Tự nó vốn đầy đủ, hoàn thiện, không đẹp không xấu, trạng thái của nó là bình lặng, tĩnh tại, không khoe khoang, tranh đoạt, tự bù đắp để tự cân bằng.
Từ sự luận giải vũ trụ của Lão Tử, ông rút ra phương pháp luận cho hoạt động của con người nói chung và cho chính trị nói riêng là phải tuân theo lẽ tự nhiên, “vô vi nhi bất vi”.
2.2. Tư tưởng chính trị:
Bao trùm tư tưởng cai trị xã hội của Lão Tử là chủ trương “vô vi nhi trị”, nghĩa là để xã hội tự nhiên vốn có, không can thiệp bằng bất cứ cách nào, xã hội sẽ được ổn định.
Lão Tử khi làm quan rất thuộc lễ nhà Chu, biết suy tính hư ngụy của lễ nhà Chu: Ông nói: “Phù lễ giả, trung tín chi bạc nhi loạn chi thủ”. (Lễ là cái vỏ mỏng của lòng trung tín và là đầu mối của loạn).
Thêm vào đó từ thời Xuân Thu trở về sau, xu thế của lễ hoại nhạc tan dã khó vãn hồi, cho nên Lão Tử phản đối dùng lễ để tiến hành thống trị xã hội. Đồng thời ông cũng cho rằng pháp trị cũng là điều vô cùng tàn các.
“Pháp lệnh tư chương, đạo tặc đa hữu” (Pháp lệnh càng rõ ràng, chính xác, trộm cướp lại càng nhiều).
Lão Tử vừa nêu ra vừa tổng kết có bốn hình thức cai trị, sử dụng các phương pháp khác nhau. Đó là:
- Dùng vô vi: dân số tự nhiên, yên ổn, cai trị đơn giản.
- Dùng đức: giáo hoá dân, dân nghe theo mà ca ngợi.
- Dùng pháp: dân theo, nhưng vì sợ hãi mà theo.
- Dùng mưu lừa gạt: dân theo vì bị lừa, khi biết sẽ phản đối.
Lão Tử chủ trương cai trị bằng phương pháp vô vi, ca ngợi vua cai trị theo cách vô vi, vì cho rằng đó là hợp với lẽ tự nhiên. Tự nhiên là không bị tri phối bởi tình cảm, ý muốn, trí tuệ của con người. Có sự can thiệp của con người dù bằng bất cứ cách nào thì chính trị cũng trở nên rắc rối.
“Vô vi” là một khái niệm tối quan trọng trong học thuyết của Lão Tử. “Vô” là “không”, “vi” là làm. Vô vi có nghĩa là không làm gì trái với tự nhiên, chứ không phải là không làm gì cả.
Vô vi không phải là không làm gì cả, không có phản ứng với ngoại giới. Mà vô vi ở đây có nghĩa là không dùng tâm mà xen vào việc của người khác, không dùng lòng tham cá nhân mà can thiệp vào mọi việc. Hành sự hợp lẽ, thuận theo quy luật tự nhiên.
Muốn đạt được cảnh giới “vô vi nhi trị” thì phải “giúp vạn vật phát triển tự nhiên mà không dám can dự vào”. Phải dựa vào quy luật tất yếu của bản thân sự vật để hỗ trợ phát triển, không được dùng bất cứ nogại lực nào can thiệp vào.
Chủ trương “vô vi nhi trị” đối lập với “hữu vi”. “Hữu vi” nghĩa là can sự can thiệp vào đời sống xã hội, làm mất tính tự nhiên vốn có của nó, vì vậy sẽ làm xã hội, làm mất tính tự nhiên vốn có của nó, vì vậy sẽ làm xã hội rối loạn, càng can thiệp sâu càng rối loạn.
“Hữu vi” cũng không phải gì cũng làm, mà bày vẽ chuyện làm trái với quy luật. Tuỳ tiện bày vẽ chuyện sẽ gây ra nhiều tai hại. Hữu vi dù khéo kéo đến đâu, đem so với quy luật tự nhiên, cũng không đáng để nói.
Xem ngay cách trị nước của các bậc vua chúa đường thời Lão Tử nhận thấy rằng: nhà cầm quyền càng gia tăng luật pháp, càng bày ra nhiều điều cấm kỵ, thì dân chúng lại càng bị còng trói khổ sở, càng sinh ra tham lam trá ngụy:
“Thiên hạ đa kỵ huý, nhi dân di bần: dân đa lợi khí, quốc gia tư hôn; nhân đa kỹ xảo, kỳ vật tư khởi; pháp lệnh tư chương, đạo tặc đa hữu” (thiên hạ mà nhiều kiêng kỵ thì dân càng nghèo; dân mà nhiều lợi khí nước nhà thêm tăm tối; con người nà nhiều khéo léo các vật lạ càng sinh tham; pháp lệnh càng rõ ràng; thì trộm cướp càng lại càng nhiều thêm).
Như vậy trị nước đâu cần phải dùng đến trí, mưu hay htao lược làm gì, mà tự đem cái gương điềm tình vô vi mà cảm hoá.
“Ngã vô vi nhi dâm tự hoá; ngã hiếu tịnh nhi dân tự chính, ngã vô sự nhi dân tự phú, ngã vô dục nhi dân tự phác” (Ta không làm gì mà dân tự hoá ta thích thanh tịnh mà dân tự ngay thẳng; ta không làm việc gì mà dân tự giàu; ta không muốn gì mà dân tự trở nên thực thà).
Trên thực tế đó là yêu cầu kẻ thống trị dùng thủ đoạn ôn hoà, khiến cho nhân dân tự phác, tự giác phục tùng thống trị.
Vô vi của Lão Tử là kiến nghị kẻ thống trị dùng sợi dây vô hình trói chặt tay chân quần chúng, không làm không, chống đối.
Lão Tử lại cho rằng kẻ dùng “trí thuật” mà trị nước, là hạng người làm loạn nước, là kẻ làm hại cho nước. Cụ thể là khi dùng pháp luật hay mưu mẹo để cai trị, thì dân sẽ tìm cách lẩn tránh pháp luật, dùng mưu mẹo để ứng phó mà trở nên mưu trí, khi dân đã mưu trí thì xã hội tất loại. Lão Tử dùng khái niệm “tri túc” (nghĩa là phải biết thế nào là đủ) để điều chỉnh hành vi con người. Biết nhiều quá khó trị, tham lam quá sinh loạn.
Cai trị vô vi, theo Lão Tử còn là không làm phiền hà dân do luôn phải thay đổi pháp lệnh. Lão Tử so sánh trị nước lớn như nấu cá nhỏ lật nhiều sẽ nát.
“Trị đại quốc nhược phang tiểu tiên” (trị nước lớn giống như nấu cá nhỏ).
Nấu cá nhỏ, người ta không dám làm vẩy, lóc thịt… là vì người ta sợ làm nát nó đi. Trị nước lớn cũng như vậy, kẻ cai trị không dám dùng đến cái đạo “hữu vi” ra nhiều pháp luật mà thương tổn và đau khổ nhân dân, xui họ sinh ra chống đối.
Trị nước dùng chính sách rộng rãi khoan hồng đừng can thiệp đến đời sống tư của nhân dân, chính bệnh không khắt khe, thì dân cảm thấy thư thái nhẹ nhàng, nên ôn hoà thuần hậu. Trái lại, khi chính lệnh quá gắt gao, xoi bói, dòm dò người dân cảm thấy nghi ngờ, lo sợ phập phồng, bao giờ cũng đua khổ rày vò vì bị mặc cảm tội lỗi.
“Trị nước lớn giống như nấu cá nhỏ” là câu cách ngôn rất nổi tiếng không những của người Trung Quốc mà cả người Châu âu, Châu Mỹ cũng biết đến câu nói cách ngôn ấy. Năm 1987, tổng thống Mỹ Rigân đã từng dẫn lời nói ấy vào trong ”văn bản báo cáo tình hình đất nước”. Từ đó đủ thấy được sự ảnh hưởng của câu nói “Trị nước lớn, giống như nấu cá nhỏ” của Lão Tử đối với việc trị quốc.
Lão Tử cũng nói: “Trị nước lớn phải yên tĩnh, không quấy nhiễu, cũng như múc nước trong giếng, nhất thiết không được khuấy động nước cả mặt giếng. Khuấy động càng nhiều thì rác rưởi lá thối càng cuộn lên, nước sẽ càng vẩn đục. Chỉ có không khuấy động, nước giếng mới trong sạch, chỉ có không xao động, xã hội mới thái bình”.
Theo Lão Tử cai trị vô vi là không gây chiến tranh, chiến tranh là trái với đời sống tự nhiên của nhân dân, gây chiến tranh cướp đất chỉ phục vụ cho ham muốn của kẻ vô đạo “hữu vi”.
Đúng về phương diện cá nhân, Lão Tử chủ trương “bất cảm vi thiên hạ tiên” và “bất tranh nhi thiện thắng”, đánh đổ sự dùng bạo lực hay uy quyền mà can thiệp đến việc người. Đứng về phương diện chính trị quốc tế, ông cũng bác bỏ triệt để chiến tranh dưới mọi hình thức.
“Phù gia binh giả, bất thường chi khí; cố hữu đạo giả bất xử… Bất đắc dĩ nhi dụng chi, điềm đạm vi thượng thắng tắc bất khả dĩ đắc chí ư thiên hạ hỉ” (quân binh tốt đẹp, là các món không lành. Bởi vậy bậc thánh quân trị nước mà hữu đạo không dùng đến. Nhưng nếu bất đắc dĩ mà phải dùng, thì nên bình tĩnh điềm đạm. Thắng được cũng không tốt gì. thế mà cho đó là tốt đẹp, tức là vì thích giết người: kẻ thích giết người thì không thể đắc chí ở giữa thiên hạ vậy).
Lão Tử còn cho rằng: “kẻ lấy đạo mà giúp vua không nên dùng đến binh mà cưỡng hiếp thiên hạ… Chỗ nào quân gia ở, tất gai góc mọc đầy: sau những trận tranh hùng ắt phải nhiều năm đối khó”.
Từ dó Lão Tử chủ trương cai trị bằng đạo vô vi; muốn dân yên đừng đẩy dân đến chỗ cùng đường khi cùng đường dân sẽ chống đối, ít thì làm trộm cướp, cao hơn nữa là giết vua. Đạo tự nhiên là chỗ thừa bù chỗ thiếu. Nếu cai trị chỉ bóc lột dân là lấy chỗ thiếu bù vào chỗ thừa, phải dạy dân làm cho họ hết đường sống, đẩy họ đến chỗ phải chọn cái chết đói, hay chọn cái chết phản kháng.
Lão Tử phác hoạ hình mẫu của một Nhà nước lý tưởng là một Nhà nước: “Nước nhỏ ít dân. Dù có khí cụ gấp trục gấp trăm sức người cũng không cần dùng đến. Ai lấy đều coi trọng sự chết là hệ trọng nên không đi đâu xa… Thức ăn đạm bạc mà thấy ngon, quần áo tầm thường mà lấy là đẹp, nhà ở thô sơ mà thích, phong tục giản phác mà lấy làm vui. Các láng giềng gần gũi trông thấy nhau, nước này nghe tiếng gà, chó sủa nước kia, mà dân các nước ấy đến chất không qua lại với nhau”.
Quan niệm của Lão Tử ta có thể thấy được một mặt ông yêu hoà bình, thích thú vứi xã hội đơn sơ, bình lặng, nhưng mặt khác, ông không thấy được sự phát triển tất yếu của xã hội, phủ nhận sự phát triển đó, ông coi đó là trạng thái tự nhiên mà không thấy được chính sự phát triển đó cũng là tự nhiên. Quan niệm Nhà nước lý tưởng của ông đi ngược lại lịch sử, vì vậy trong lịch sử cai trị Trung Quốc cổ đại về một Nhà nước, tư tưởng của Lão Tử không được các nước chư hầu áp dụng.
Về biện chứng trong chính trị, Lão Tử là nhà triết học có tư tưởng biện chứng, ông vận dụng để luận giải về một số vấn đề chính trị như sự biến đổi của chủ trương cai trị: đại bị bỏ tất có nhân nghĩa thay thế.
Trong cách trị nước đòi hỏi sự mềm dẻo linh hoạt như triết lý cương – nhu. Cương (vật cứng) là vật chết nhu (mềm) là sự sống. Nhu nhược thắng cương cường.
Lão Tử cho rằng nhu nhược là biểu hiện của sự sung mãn, cứng rắn là dấu hiệu của tử vong. Ông lấy cây cỏ và thân thể làm ví dụ: “con người khi sống cơ thể mềm yếu: khi chết đi cơ thể cứng đờ. Vạn vật cây cỏ khi sinh trưởng thì mềm mại, khi chết thì trở nên khô cứng”.
Từ triết lý đó, Lão Tử áp dụng vào việc cai trị đất nước. Lão Tử cho rằng: “mềm thắng cứng, yếu thắng mạnh, thiên hạ không ai không biết, nhưng không ai có thể thực hiện”.
Cũng từ kinh nghiệm trong lĩnh vực chính trị, ông nêu ra thế ứng xử chính trị cho chính khách: “Công toại, thân thoái”. Lão Tử khi luận về thánh nhân và vương hầu rất thích dùng nước làm ví dụ, để nói rõ phẩm cách của người lãnh đạo. Ông nói “Bậc thượng hiền giống như nước, nước hay làm lợi cho vạn vật mà không tranh với vạn vật ở chỗ mà người người đều ghét, nên gần với đạo”, ý nói người lãnh đạo cần có phẩm cách cao thượng, phẩm cách của họ giống như nước vậy, làm lợi cho vạn vật mà không chanh chấp với vạn vật, am tâm đặt mình ở nơi mà người người đều ghét, cho nên rất gần với đạo. Nước công chính mà vô tư, tìm đế những chỗ thấp, làm lợi cho vạn vật mà không nghĩ đến riêng mình.
Từ đó nhận thấy rằng người lãnh đạo phải có đạo đức cao thượng biết làm lợi cho nhân dân mà không nghĩ đến riêng mình.
Lão Tử cho rằng “Đức mà cao, như trũng thấp”, ý nói đức cao cả giống như hang trũng. Đặc điểm của hang trũng là có thể chứa được mọi vật. Bởi vậy người lãnh đạo cần phải có lòng nhân hậu, bao dung.
Lão Tử nói rõ “sông biển sở dĩ làm đặng vua trăm hang, vì nó khéo nằm chỗ thấp, nên làm đặng vua trăm hang. Bởi vậy, thánh nhân muốn ở trên dân, phải đem mình để ra sau. Vậy nên, thánh nhân ở trên mà dân không thấy nặng, ở trước dân mà dân không thấy hại. Vì thế, thiên hạ còn ưa đẩy tới trước”.
Làm người lãnh đạo, phải tỏ ra khiêm tốn, hạ mình đặt cái thân mình ra sau, làm gương tốt cho mọi người, như vậy mới được mọi người ủng hộ.
Lão Tử rất coi trọng đối với chữ “tín” của người lãnh đạo, cho rằng đó là phẩm cách cần phải có. Khi nêu ra chủ trương chính trị của mình, Lão Tử phân người lãnh đạo làm bốn loại: Loại tốt nhất, dân không biết đến sự tồn tại của họ; kế đến, dân thân và khen họ; loại tồi nhất, dân khinh họ. Lão Tử còn nói tiếp “vì đủ tin, nên dân không tin”. Người lãnh đạo cần phải giữ chữ tín, mới lấy được lòng tin của mọi người trong thiên hạ.
II. Khả năng kế thừa và phát triển tư tưởng của Lão Tử về quản lý Nhà nước, vận dụng vào Việt Nam hiện nay.
1. Khả năng kế thừa và phát triển tư tưởng Lão Tử về quản lý Nhà nước.
Thế giới hiện nay đang có xu hướng quay trở lại các giá trị truyền thống của phương Đông. Trong xu hướng chung đó tư tưởng chính trị và triết học Trung Quốc cổ đại thu hút được sự quan tâm rộng rãi của các nhà khoa học trên thế giới.
Người phương Tây có câu: “ánh sáng từ phương Đông đến… cuộc thiên diễn của văn minh loài người từ xưa đến nay là từ phương Đông sang phương Tây. Văn minh tinh thần nhân loại bắt đầu xuất hiện ở cực Đông, rồi dần dần chuyển từ Trung Hoa đén ấn Độ, Ba Tư, Chaldée, Syrie, Hy Lạp và sau cùng là Roma và Pháp”.
Ngày nay Châu Âu không phải là trung tâm của các giá trị tinh thần. Nhiều nhà khoa học phương Tây đã dành công sức cả đời để nghiên cứu về phương Đông và ngày càng phát hiện thêm những giá trị vô cùng phong phú của phương Đông.
Hiện nay, trong nội dung tư tưởng chính trị là triết học Trung Quốc cổ đại, những quan điểm về vấn đề quản lý Nhà nước được nhiều nhà nghiên cứu khai thác để kế thừa và vận dụng vào việc quản lý Nhà nước hiện đại. Nhiều quốc gia Châu á đã nghiên cứu và vận dụng thành công một số hạt nhân hợp lý trong học thuyết Lão Tử về việc quản lý Nhà nước bằng phương pháp “vô vi” của ông.
Tư tưởng học thuyết “vô vi” về vấn đề quản lý Nhà nước. Có th đem lại những bài học quý giá mà các lý thuyết hiện đại về quản lý Nhà nước cũng không thể không công nhận.
Quản lý Nhà nước bằng “vô vi” của Lão Tử có thể đem lại cho các nhà nước hiện đại câu trả lời về hàng loạt các vấn đề như: mức độ can thiệp của các chính sách quản lý Nhà nước đối với đời sống nhân dân; vai trò và các tiêu chuẩn của pháp luật trong quản lý Nhà nước…
Trong tư tưởng chính trị của Lão Tử khi nghiên cứu ta thấy được nhiều mặt hạn chế hơn là những mặt tích cực. Vì vậy phương thức vô vi trong quản lý Nhà nước của Lão Tử đương thời không được áp dụng.
Ngày nay các quan điểm của Lão Tử về quản lý Nhà nước không được đánh giá cao, thậm trí có nhiều lời phê bình đôi khi rất nặng nề. Các tác giả của Liên Xô trong cuốn “Lịch sử các học thuyết chính trị trên thế giới” cho rằng: “Học thuyết vô vi của Lão Tử chủ trương thiết lập một Nhà nước xa lạ với tiến bộ của nền văn minh, lý tưởng của Lão Tử là quay trở lại trật tự của xã hội nguyên thuỷ – một trong những nét phản động của học thuyết Lão Tử”.
Quan điểm đánh giá của Lão Tử trong quản lý Nhà nước được đánh giá là tiêu cực thụ động. Nó phản ánh sự suy bại của đẳng cấp phong kiến quý tộc cũ vì muốn phản ứng lại tình thế, nhưng vì bất lực nên chỉ còn biết than phiền địa vị xã hội của mình đã nghiêng đổ”.
Có thể nói rằng những sự phê bình Lão Tử có lý do nhất định.
Tuy nhiên, ngày nay chúng ta nên đánh giá vô vi trong quản lý Nhà nước mà Lão Tử đã đề xuất theo một nhãn quan khác hơn. Lão Tử nói rằng “Vì thiên hạ không hiểu ngôn luận của ta nên không biết ta”. Thật vậy, những sự phê bình Lão Tử nhiều khi xuất phát từ việc không hiểu Lão Tử, người ta không hiểu một cách chính xác ý tứ cũng như ngôn ngữ của Lão Tử.
Đúng là chủ trương “vô vi” của Lão Tử là nhiều mặt hạn chế, nhưng chúng ta cũng phải nhận thấy rằng tư tưởng của ông vẫn có những hạt nhân hợp lý, khi bàn về vấn đề quản lý Nhà nước. Đó là sự can thiệp quá mức của Nhà nước vào đời sống nhân dân bằng những quy định pháp luật rắc rối và phiền phức của Nhà nước sẽ là những nhân tố cản trở sự phát triển trong nhân dân.
Việt Nam là một xã hội phương Đông. Nhà nước Việt Nam phải có những nét đặc thù của một Nhà nước phương Đông, tiếp thu được những lý thuyết hiện đại về quản lý Nhà nước đồng thời kết hợp với các hạt nhân hợp lý tư tưởng về quản lý Nhà nước, tư tưởng chính trị và triết học Trung Quốc cổ đại nói chung và học thuyết của Lão Tử nói riêng là một yếu tố rất thiết thực, có ý nghĩa quan trọng trong việc vận dụng vào việc quản lý Nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Vận dụng một số hạt nhân hợp lý tư tưởng Lão Tử về quản lý nhà nướcvào việc quản ly nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Từ việc nghiên cứu tư tưởng chính trị và phương pháp cai trị vô vi của Lão Tử trên phương diện quản lý Nhà nước, chúng ta có thể vận dụng một số hạt nhân hợp lý và việc quản lý Nhà nước ở Việt Nam hiện nay theo những nội dung sau:
Thứ nhất: Các chính sách quản lý Nhà nước phải tôn trọng tự nhiên, không can thiệp quá mức vào tự nhiên; nhân dân sống hoà hợp với tự nhiên, nên hướng về một đời sống giản phác.
Tư tưởng của Lão Tử đã chỉ cho chúng ta rằng chúng ta phải sống theo tự nhiên, chứ không phải can thiệp quá mức vào tự nhiên. Chính sách quản lý của Nhà nước phải tôn trọng tự nhiên. Nhân dân phải hoà hợp với tự nhiên và sống một đời giản phác.
Như ta thấy phương Tây sau bao nhiêu năm chinh phục tự nhiên, ngày nay cũng đang phải gánh chịu những sự tác động tiêu cực của nó. Các Nhà nước hiện đại đang phải đối mặt với những hậu quả của việc can thiệp quá mức vào tự nhiên, ô nhiễm môi trường, khí độc của các nhà máy, hiệu ứng nhà kính, chất độc của các loại phân hoá học… đều là những hậu quả của việc chinh phục tự nhiên.
Việt Nam cũng đang phải đối mặt với những vấn đề mang tính toàn cầu này. Vì vậy những kế hoạch quản lý Nhà nước phải tác động phù hợp với quy luật của thiên nhiên chứ không phải là sự can thiệp quá mức vào thiên nhiên. Điều này liên quan đến chính sách quản lý Nhà nước của Việt Nam về rừng, biển, nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường…
Sự phức tạp của đời sống hiện đại đã làm khô khan đời sống tâm hồn của con người. Người phương Tây đã nhận thấy những bất cập của sự phức tạp của đời sống hiện đại và muốn sống giản dị, chất phác hoà hợp với thiên nhiên. Khi đó họ nhận thấy ưu điểm của Lão Tử. Max Kaltenmark, trong công trình “Lao Tseu” cho biết rằng ở Âu Mỹ nhiều người thích thuyết vô vi của Lão Tử, mà xét cho cùng thái độ thuận theo tự nhiên, bất can thiệp của Lão Tử không trái với tinh thần khoa học chút nào, vì một tinh thần thực khoa học bao giờ cũng tôn trong những luật thiên nhiên. Nhân dân trong xã hội Việt Nam của chúng ta ngày nay cũng nên theo lời khuyên của Lão Tử, ngoài những lúc làm việc để góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cũng cần phải có những khoảng thời gian sống hoà hợp với thiên nhiên, không nên phức tạp hoá cuộc sống, giản dị và chất phác sẽ làm cho cuộc sống bớt căng thẳng hơn trong nhịp sống hiện đại.
Thứ hai: Nhà nước tốt nhất là Nhà nước tinh gọn nhất và quản lý ít nhất; pháp luật tốt nhất là pháp luật tinh gọn nhất và điều chỉnh ít nhất.
Bài học này rút ra từ việc nghiên cứu phương thức vô vi của Lão Tử. Theo phương thức này Nhà nước cần giảm tối thiểu sự can thiệp vào đời sống của nhân dân; pháp luật không can thiệp vào mọi lĩnh vực củads xã hội; Nhà nước quản lý nhân dân như thế nào để nhân dân không thấy sức nặng của Nhà nước đang ở trên mình; những thành quả nhân dân được hưởng thụ do Nhà nước đem lại nhưng để cho nhân dân tự thấy đó là những thành quả của chính mình. Trong những khía cạnh nhất định, những tư tưởng này có ý nghĩa đối với chúng ta hiện nay.
Sự can thiệp quá mức của Nhà nước vào đời sống của nhân dân, cũng như việc giới hạn hành vi của nhân dân bằng những quy định pháp luật rắc rối và phiền phức của Nhà nước sẽ là những nhân tố cản trở sự phát triển của xã hội, không khơi dậy những tiềm năng dồi dào trong nhân dân. Trong thời kỳ của cơ chế kế hoạch hoá, tập trung bao cấp ở nước ta, Nhà nước đã can thiệp sâu vào đời sống của nhân dân. Chính cơ chế này đã tạo ra những giới hạn cho vịêc phát triển nguồn lực của đất nước. Cơ chế tập trung đã làm cho các thành phần kinh tế không có cơ hội để phát triển, đất nước rơi vào tình trạng trì trệ. Nhận thấy những bất cập của cơ chế tập trung bao cấp, chúng ta đã chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Khi này, Nhà nước không còn can thiệp quá mức vào đời sống của nhân dân, các thành phần kinh tế được cơ hội để tự do cạnh tranh trên thương trường trong khuôn khổ của pháp luật. Cơ chế của thời kỳ đổi mới đã tạo ra những sự phát triển to lớn của xã hội Việt Nam.
Có sự gặp nhau gì không giữa tư tưởng của Lão Tử về Nhà nước vô vi và tư tưởng về Nhà nước pháp quyền? Nhà nước pháp quyền phải là một Nhà nước không can thiệp quá mức vào đời sống của nhân dân. Đó là một Nhà nước quản lý ít nhất. Nhà nước chỉ quản lý những vấn đề mang tầm cỡ quốc gia. Khuynh hướng địa phương hoá cũng như việc chuyển giao việc thực hiện các dịch vụ công cộng từ phái Nhà nước cho tư nhân đang diễn ra phổ biến trên thế giới hiện nay cho thấy rằng càng ngày Nhà nước càng thu hẹp sự can thiệp của mình vào đời sống của nhân dân. Nếu về phái Nhà nước có nguyên tắc Nhà nước tốt nhất là Nhà nước quản lý ít nhất, thì pháp luật cũng có nguyên tắc tương đồng. Pháp luật tốt nhất cũng là pháp luật tinh tường nhất và điều chỉnh ít nhất. Như vậy chúng ta có thể thấy rằng Lão Tử đã không phải vô lý khi đưa ra quan điểm về Nhà nước vô vi.
Sự tinh tường của Nhà nước tức là bộ máy Nhà nước phải tinh và gọn. Việc tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước ở Việt Nam theo hướng này phải thực hiện các giải pháp như sau:
- Tiếp tục sắp xếp lại cơ cấu Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thành các Bộ quản lý đa ngành. Tập trung vào sắp xếp các cơ quan thuộc Chính phủ; hướng là đưa vào các Bộ tương đương hoặc tạo thành một số Bộ mới, chỉ để lại cơ quan trực thuộc Chính phủ hết sức hạn chế.
- Sắp xếp lại các cơ quan quản lý theo ngành học (Trung ương trực tiếp quản lý). Xác định những bộ, những ngành nào Trung ương dứt khoát phải trực tiếp nắm như: quốc phòng; an ninh, ngoại giao, ngân hàng Nhà nước, thuế, kho bạc, hải quan; còn lại thì cân nhắc, có thể chuyển giao cho địa phương quản lý. Cần thay đổi nhận thức về Trung ương trực tiếp quản lý hiện nay; nếu không chủ trương phân cấp là không thể thực hiện được.
- Soát xét lại tổ chức, chức năng của cơ quan phối hợp do Thủ tướng quyết định thành lập (các Uỷ ban, Hội đồng, Ban chỉ đạo…). Hiện nay, loại tổ chức này số lượng quá lớn (trên 2000 cơ quan). Cần sắp xếp, giảm đến mức thấp nhất loại tổ chức này và đưa cơ quan thường trực, giúp việc vào Bộ tương ứng.
- Về tổ chức, cơ quan giúp việc của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan quản lý vĩ mô (Vụ, Cục…), của Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (Sở, Ban…), cấp huyện cũng cần có sự chuẩn hoá, sắp xếp, tinh giảm; ngăn chặn xu hướng gia tăng đầu cơ quan quản lý hiện nay.
Nhà nước quản lý ít nhất đòi hỏi sự điều chỉnh vai trò của nước trong điều kiện xã hội mới. Trên phạm vi thế giới, người ta có cảm tưởng rằng xu hướng toàn cầu hoá, tự do hoá nền kinh tế hình như đã làm mờ nhạt vai trò của Nhà nước. Theo Báo cáo của Uỷ ban “Nhà nước, nền hành chính Nhà nước và hoạt động dịch vụ công trước ngưỡng cửa năm 2000” – Diễn đàn Kinh tế – Tài chính Việt – Pháp, từ năm 1983, Nhà nước đã từ bỏ dần một phần lớn những công cụ truyền thống vẫn sử dụng nhằm trực tiếp kiểm soát thị trường: kiểm soát giá cả, hạn mức tín dụng, quy định tỷ lệ lãi suất, kiểm soát hối đoái, cơ chế cấp phép hành chính cho sự sa thải nhân công… Tuy nhiên Báo cáo cũng cho rằng vai trò của Nhà nước không mất đi, nhưng có những sự điều chỉnh: Nhà nước vẫn đóng vai trò quan trọng của mình, đó là vai trò điều tiết, kiểm soát sự vận hành của thị trường, bảo đảm sự tuân thủ các nguyên tắc cạnh tranh, kiềm chế những hiện tượng mất cân đối vĩ mô về kinh tế, tài chính. Như vậy, Nhà nước sẽ hạn chế, giảm thiểu các biện pháp can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế. Vai trò của Nhà nước chính là ở chỗ ban hành các văn bản pháp luật tạo hành lang pháp lý cho sự vận hành của cơ chế thị trường, kiểm soát những tác động trái của cơ chế thị trường.
Việt Nam đã chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước trong cơ chế kinh tế mới phải có vai trò khác với Nhà nước trong cơ chế tập trung bao cấp trước đây. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước chuyển từ vai trò người “cầm chèo” sang vai trò của người “cầm lái”.
Trong cơ chế kinh tế mới, Nhà nước không nên can thiệp quá sâu vào đời sống kinh tế, mà phải tập trung vào việc xây dựng các văn bản pháp luật làm hành lang pháp lý cho sự vận hành của nền kinh tế. Đồng thời Nhà nước phải có những biện pháp kiểm soát những mặt trái của cơ chế thị trường. Cần phải xác định được tỉ trọng, mức độ làm kinh tế trực tiếp của Nhà nước thông qua các doanh nghiệp Nhà nước.
Với xu hướng Nhà nước quản lý ít nhất, Chính phủ cần tập trung vào xây dựng thể chế, chính sách vĩ mô của cả nước, khắc phục việc biến Chính phủ. Thủ tướng thành các cơ quan quản lý sự vụ; phân cấp mạnh cho địa phương về quản lý, phát triển kinh tế, dân sinh, dân sự xã hội; giảm các việc Trung ương đang trực tiếp quản lý, điều hành trực tiếp, tiến hành xã hội hoá việc thực hiện các dịch vụ công.
Pháp luật cũng phải tinh gọn nhất và điều chỉnh ít nhất. Luật của Quốc hội phải có khả năng trực tiếp đi vào cuộc sống, giảm bớt tình trạng luật của Quốc hội để có thể đi vào cuộc sống phải đợi có nghị định hướng dẫn của Chính phủ. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng có thể ban hành Nghị định, Quyết định để tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật của Quốc hội. Nhưng việc ban hành các văn bản pháp luật của các cơ quan hành chính đó phải đảm bảo khả năng thực thi, có tính ổn định lâu dài, và sự an toàn pháp lý cao. Các cơ quan quản lý Nhà nước khác phải giảm tối thiểu ban hành các văn bản pháp luật. Các văn bản pháp luật của các cơ quan hành chính Nhà nước ngoài cơ quan kể trên nhằm mục đích cụ thể hoá các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên. Nhưng chính sự cụ thể hoá này nhiều khi mâu thuẫn với văn bản của các cơ quan cấp trên, và quan trọng hơn là vi phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đây là một điều không thể chấp nhận được trong một Nhà nước pháp quyền. Do đó, các cơ quan hành chính Nhà nước này phải giảm đi việc ban hành các văn bản pháp luật.
Thứ ba: Nhà nước và pháp luật do Nhà nước ban hành phải tôn trọng bản tính tự nhiên của con người.
Lý thuyết vô vi của Lão Tử thực chất là muốn đặt vấn đề rằng Nhà nước cũng như pháp luật của Nhà nước phải tôn trọng bản tính tự nhiên của con người. Đây là một tư tưởng rất gần với lý thuyết pháp lý tự nhiên của các nhà triết học phương Tây. Pháp lý tự nhiên là một học thuyết về một pháp lý lý tưởng, độc lập với Nhà nước, dường như xuất phát từ lý tính và bản tính của con người. Những tư tưởng về pháp lý tự nhiên đã được đề ra ngay trong thời cổ đại (Xôcrát, Platon,v.v…). Những tư tưởng về pháp lý tự nhiên đã được truyền bá nhiều nhất trong thời kỳ những cuộc cách mạng tư sản ở phương Tây (thế kỷ XVII - XVIII). Những người ủng hộ học thuyết về pháp lý tự nhiên – Grôxi, Xpinôda, Lôccơ, Rútxô, Môngtexkiơ, Hônbách, Cantơ, Rađisep… đã sử dụng nó để phê phán chế độ phong kiến, để chứng minh cho tính tự nhiên và tính hợp lý của xã hội tư sản.
Học thuyết pháp lý tự nhiên chủ trương, cũng giống như lý thuyết vô vi của Lão Tử, rằng các đạo luật do Nhà nước ban hành phải phù hợp với quyền tự nhiên vốn có của con người. Học thuyết pháp tự nhiên mang tính chất duy tâm và siêu hình. Lý thuyết này đã không nhìn nhận tính lịch sử và tính giai cấp của các quyền lợi của con người, mối liên quan của chúng đối với sự phát triển những điều kiện vật chất của đời sống xã hội. Tuy nhiên, lý thuyết pháp lý tự nhiên cũng như lý thuyết vô vi cũng có những mặt tiến bộ nhất định mà thiết nghĩ rằng ngày nay nếu chúng ta khai thác một cách hợp lý thì vẫn có những ý nghĩa.
Nhà nước cũng như pháp luật của Nhà nước phải phản ánh được những bản tính tự nhiên vốn có của con người. Madison đã viết rằng; “Chính phủ là gì, nếu không phải là cái đã phản chiếu rõ ràng nhất bản tính của loài người”. Nhà nước là một bộ máy mà thông qua đó con người quản lý con người. Cho nên, bộ máy Nhà nước phải phản ánh được tính tự nhiên của con người. Trong việc tổ chức Nhà nước phải trù liệu trước và ngăn ngừa được những hậu quả xấu do con người trong bộ máy đó gây ra, vốn là những tính tự nhiên vốn có của con người như sự đam mê quyền lực mà tha hóa quyền lực. Cần có những cách thức tổ chức bộ máy Nhà nước sao cho các nhân viên Nhà nước thừa hành nhiệm vụ phẩm chất trong sạch khi thi hành nhiệm vụ, tránh mọi cám dỗ có thể xảy ra mà con người do bản tính tự nhiên của mình nhiều khi khó có thể cưỡng chế lại được.
Như vậy, có thể nói rằng lý thuyết vô vi, cũng như lý thuyết pháp lý tự nhiên có ý nghĩa chống lại sự chuyên chế của Nhà nước, nó vạch ra những giới hạn là những sự tự nhiên của con người mà Nhà nước và pháp luật của Nhà nước phải tôn trọng không được vi phạm. Vô vi không có nghĩa là yêu cầu Nhà nước không làm gì và cũng không có pháp luật mà là Nhà nước không làm những gì và pháp luật không quy định những gì trái với tính tự nhiên của con người, Nhà nước và pháp luật phải tác động phù hợp với bản tính tự nhiên của con người, Nhà nước và pháp luật cản trở những gì tác động với tính tự nhiên của con người.
Chẳng hạn, Hiến pháp là đạo luật quy định việc con người phải quản lý con người. Vì vậy một bản hiến pháp tốt khi và chỉ khi các quy định của nó phản ánh được hết các bản tính vốn có của con người, cho dù họ là “thân hào hay là chí sĩ”. Hiến pháp phải phản ánh được bản tính tự nhiên vốn có của con người. Đó chính là tính nhân bản của Hiến pháp. ở trạng thái hoàn thiện nhất con người luôn có lý trí, có kỷ luật, có công bằng và cả lòng vị tha, nhưng khi ở trạng thái bị tổn thương, con người lại không có những đam mê, không dung thứ, sự vô liêm sỉ và còn có cả lòng tham. Điều đó cũng là lẽ đương nhiên, vì con người không phải là những thiên thần. nếu như con người chúng ta là những thiên thần, thì khỏi phải cần đến bộ máy Nhà nước, lẫn văn bản phải quy định những cung cách tổ chức và hoạt động của nó (Hiến pháp), và điều ngược lại nếu Chính phủ lại là thần thánh, thì cũng khỏi cần phải quy định các cách thức phải hoạt động theo một thể thức nhất định.
Vì vậy, bản Hiến pháp ngoài việc cần phải quy định rạch ròi giữa các cơ quan Nhà nước về chức năng, nhiệm vụ, cần có những quy định làm cho các cơ quan Nhà nước thông qua các nhân viên thừa hành nhiệm vụ được các cơ quan Nhà nước uỷ quyền luôn luôn giữ được phẩm chất trong sạch khi thi hành nhiệm vụ, tránh mọi hành vi cám dỗ có thể xảy ra. Hay nói một cách khác trong hiến văn cần có những quy định phòng chống các hiện tượng tham nhũng, thay vì quá đam mê quyền lực, hoặc do nhận thức không đầy đủ, mà gây tổn thất cho Nhà nước, ảnh hưởng đến nguyên tắc quyền lực của Nhà nước luôn luôn nằm trong tay nhân dân. Một bản Hiến pháp tốt khi và chỉ khi có những quy định hiểu rõ bản tính vốn có của con người.
Kết luận
Tóm lại, tư tưởng chính trị trong học thuyết của Lão Tử là một hệ thống lý thuyết xuất hiện sớm trong lịch sử Trung Quố, từ khi có sự phân chia thành giai cấp và có Nhà nước. Quan điểm của ông chống lại giai cấp thống trị tàn bạo, ức hiếp quần chúng, làm trái với đạo tự nhiên… Nhưng quan điểm của ông lại có nhiều ảo tưởng như: về phương pháp cai trị, Nhà nước lý tưởng, khuyên con người bằng lòng với nghèo khổ và ngu dốt để thanh thản. Vì vậy nhiều học giả khi nghiên cứu học thuyết của ông đều cho rằng tư tưởng chính trị của ông có nhiều mặt tiêu cực hơn là tích cực. Tuy nhiên trong thực tế nhiều khi chúng ta chỉ thấy mặt tiêu cực của Lão Tử mà không chú ý đến quan điểm tích cực của Lão Tử như:ông chủ trương cai trị không nên can thiệp quá mức vào đời sống của nhân dân, cũng như việc gia hạn hành vi của nhân dân bằng những quy định pháp luật, rắc rối và phiền phức của Nhà nước là những nhân tố cản trở sự phát triển của xã hội…
Từ việc nghiên cứu nội dung tư tưởng về quản lý Nhà nước của Lão Tử, ta nhận thấy những tư tưởng trên của Lão Tử là rất hợp lý. Nhưng quan điểm về quản lý Nhà nước của ông một thời đã không được đánh giá chính xác.
Những tư tưởng đó ngày nay có thể hướng dẫn cho các xã hội hiện đại về cách quản lý Nhà nước sao cho vừa tạo được sự phát triển về vật chất đồng thời nhân dân được hưởng thụ đời sống tinh thần thanh thản. Một Nhà nước quản lý xã hội tốt là phải vừa phát triển về kinh tế lại vừa phát triển về văn hoá nhân dân trong nhà nước đó hưởng một cách cân bằng các giá trị vật chất và tinh thần.
Từ khả năng phát triển kinh tế thừa và phát triển tư tưởng học thuyết Lão Tử ta có thể sinh ra một số kinh nghiệm bổ ích cho việc quản lý Nhà nước ở Việt Nam hiện nay, điều này có giá trị cả về mặt lý luận lãn thực tiễn trong phương thức quản lý Nhà nước của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Tài liệu tham khảo
1. PGS. TS. Dương Xuân Ngọc: Lịch sử tư tưởng chính trị, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2001.
2. Lê Văn Quán: Đại cương lịch sử tư tưởng Trung Quốc, Nxb. Giáo dục 1997.
3. Trí Tuệ: Lão Tử, Tư tưởng và sách lược, Nxb. Mũi Cà mau, 2003.
4. Thu Giang – Nguyễn Duy Cần: Lão Tử, Đạo đức kinh, Nxb. Văn học 1991.
5. Dương Lực: Kinh điển Văn hoá 5000 năm Trung Hoa, Nxb. Văn hoá Thông tin, 2002.
6. Nguyễn Hiếu Lê: Lão Tử Đạo đức kinh, Nxb. Văn hoá Thông tin, 1994.
7. Lịch sử các học thuyết chính trị trên thế giới. Bản dịch của Lưu Kiếm Thanh và Phạm Hồng Thái, Nxb. Văn hoá Thông tin, 2001
8. Nguyễn Anh Tuấn: Vấn đề quản lý Nhà nước trong triết học Trung Quốc cổ đại, Nxb. Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2002.
9. Bộ Tư pháp – Viện nghiên cứu khoa học pháp lý. Chuyên đề Năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính Nhà nước, thực trạng nguyên nhân và giải pháp. Thông tin Khoa học pháp lý, tháng 12, 2000.
Mục lục
Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Tình hình nghiên cứu
3. Mục tiêu của đề tài
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Kết cấu đề tài
Phần nội dung
I. Tư tưởng chính trị của Lão Tử
1. Lão Tử
1.1. Vài nét về thân thế và sự nghiệp
1.2. Tác phẩm
2. Tư tưởng chính trị của Lão Tử
2.1. Lý luận về đạo pháp tự nhiên
2.2. Tư tưởng chính trị
II. Khả năng kế thừa và phát triển tư tưởng của Lão Tử về quản lý Nhà nước, vận dụng vào Việt Nam hiện nay
2.1. Khả năng kế thừa và phát triển tư tưởng Lão Tử về quản lý Nhà nước
2.2. Vận dụng một số hạt nhân hợp lý tư tưởng Lão Tử về quản lý Nhà nước vào việc quản lý Nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Có thể bạn muốn biết?
Trả lờiXóaLão Tử là người hay là Thần?
Lão Tử là người Khúc Nhân, huyện Khổ, nước Sở vào thời Xuân Thu. Họ của ông là Lý, tên Trùng Nhĩ, tự Bá Dương. Truyền thuyết kể rằng mẹ của ông sau khi nhìn thấy một ngôi sao băng lớn bay ngang qua bầu trời, bà đã mang thai. Lão Tử sinh ra trước khi khai thiên tịch địa, là tinh linh thần phách của trời đất. Vì là khí Thần linh của thượng giới xuất hiện ở nhà họ Lý, nên Lão Tử sinh ra có họ người thường là Lý.
Mẹ của Lão Tử mang thai ông 72 năm mới mở nách trái sinh hạ ra ông. Mới sinh ra tóc ông đã bạc. Cũng có ghi chép rằng mẹ của Lão Tử tình cờ sinh ra ông dưới Lý Thụ (cây mận. Mới sinh ra, Lão Tử đã biết nói và ông chỉ vào Lý Thụ và nói: “Hãy lấy nó làm họ của tôi”.
Xem thêm tại: Lão Tử