Sự ảnh hưởng của Phật giáo Hoà Hảo đến hoạt động an ninh, trật tự truyền thống tự ở miền Tây Nam Bộ
Chủ Nhật, 13 tháng 11, 2016
Một số vấn đề về Phật giáo Hoà Hảo và sự ảnh hưởng của Phật giáo Hoà Hảo đến hoạt động an ninh, trật tự, truyền thống ở miền Tây Nam Bộ trong giai đoạn từ năm 1975 đến nay
Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Những
thập kỷ cuối thế kỷ 20 và những năm đầu của thế kỷ 21, tình hình tôn giáo trên
thế giới và trong nước có nhiều diễn biễn phức tạp, đã và đang đặt ra vấn đề
cần được lý giải trên cơ sở khoa học. Hiện nay, tôn giáo đang trở thành một
trong những vấn đề thu hút sự quan tâm chú ý của các nhà khoa học cũng như
những nhà hoạt động thực tiễn.
Hội
nghị lần thứ VII, Ban chấp hành Trung
ương Đảng cộng sản Việt Nam khoá IX, đã ra Nghị quyết về công tác tôn giáo nhằm
phát huy sức mạnh tổng hợp khối đại đoàn
kết dân tộc, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu: “Dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Trong
giai đoạn mới của cuộc công nghiệp xã hội chủ nghĩa, Nghị quyết Đảng cộng sản
Việt Nam khẳng định: “Tín ngưỡng là nhu cầu của một bộ phận nhân dân đang và sẽ
tồn tại trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước đó”.
Cùng
với 5 tôn giáo lớn ở nước ta, Phật giáo Hoà Hảo là một tôn giáo có vai trò quan
trọng trong đời sống tinh thần của tín đồ nhân dân ở khu vực miền Tây Nam Bộ.
Qua quá trình tồn tại và phát triển, vấn đề Đạo - Đời của Phật giáo Hoà Hảo có
nhiều vấn đề phức tạp về an ninh và xã hội. Do vậy, trong quá trình đổi mới,
Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, giải pháp nhằm phát triển kinh tế,
văn hoá, xã hội ở vùng Tôn giáo nói
chung và Phật giáo Hoà Hảo nói riêng, làm cho đời sống tinh thần ở vùng ngày
một nâng cao, an ninh – xã hội ngày càng ổn định và phát triển.
Khi
mới ra đời, Phật giáo Hoà Hảo không chỉ được coi là một hiện tượng Tôn giáo
nhằm thoả mãn nhu cầu tín ngưỡng của tín đồ mà còn được nhìn nhận như một phong
trào yêu nước. Song quá trình tồn tại và phát triển, trong mối quan hệ với các
thế lực đế quốc (Pháp, Nhật, Mỹ…) và chính quyền tay sai, vấn đề Đạo - Đời của
Phật giáo Hoà Hảo trở nên phức tạp, tính dân tộc của một phong trào yêu nước
được thay thế bởi những tham vọng chính trị của những cá nhân hay các tổ chức
phản động trong Phật giáo Hoà Hảo.
Sau
ngày miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước, giáo hội Phật giáo Hoà Hảo cũng
như các tổ chức chính trị, quân sự của nó không còn hoạt động nhưng tín ngưỡng
của giáo lý Hoà Hảo là “học Phật, tu Nhân”, một số phần tử phản cách mạng là
tín đồ Hoà Hảo trong thời gian qua đã tích cực chống phá cách mạng Việt Nam
trong công cuộc xây dựng đất nước trên nhiều lĩnh vực và nhiều hình thức khác
nhau. Chúng lợi dụng chính sách đổi mới, mở cửa,hoà cùng âm mưu hoạt động “Diễn
biễn hoà bình” của các thế lực thù địch, đặc biệt là sự hà hơi tiếp sức của một
số đối tượng Hoà Hảo lưu vong ở nước ngoài.
Vì
là Tôn giáo nội sinh, ra đời muộn hơn so với các Tôn giáo khác, tín đồ tuy đông
nhưng chủ yếu tập trung ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ; Bên cạnh những ảnh hưởng
tích cực, rất rõ nét của Phật giáo Hoà Hảo như: giáo lý khuyên dạy người ta:
“làm lành, làm dữ”, duy trì những giá trị truyền thống và phong tục tập quán
tốt đẹp của dân tộc, đề cao lòng tự tôn, tự hào dân tộc… Phật giáo Hoà Hảo còn
có những hạn chế như: một số nội dung của giáo lý ảnh hưởng không tốt tâmlý của
tín đồ, hình thành nên các dư luận, tin đồn thất thiệt về các hiện tượng như lũ
lụt, hạn hán… hoặc các biến cố thất thường trong xã hội đồng thời đã gây nên sự
đánh giá khác nhau về Phật giáo Hoà Hảo,
đó là tình hình “Chính trị hoá” cao độ. Song, đứng trên quan điểm khách quan để
xem xét, thì cũng như một số tôn giáo khác ra đời và phát triển trong một thời
kì có nhiều biến đổi quan trọng của lịch sử dân tộc, Phật giáo Hoà Hảo không
tránh khỏi việc bị các thế lực thù địch lôi kéo và lợi dụng, Nhưng sự lợi dụng
đó có lúc khá trầm trọng và không chỉ gây thiệt hại cho cách mạng trong hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ vừa qua, mà còn gây ra tình trạng chia rẽ
không bình thường trong nội bộ Phật giáo Hoà Hảo.
Để
nhận thức đầy đủ về thực trạng và bản chất của Phật giáo Hoà Hảo; góp phần thực
hiện tốt hơn trong công tác đảm bảo an ninh trật tự trên lĩnh vực và địa bàn có
tín đồ - Phật giáo Hoà Hảo; đồng thời để xử lý tốt mối quan hệ tôn trọng giữa
quyền tự do tín ngưỡng với đấu tranh chống âm mưu lợi dụng Tôn giáo - Phật giáo
Hoà Hảo. Với lý do đó, em muốn vận dụng sự hiểu biết của mình để trình bày đề
tài: “Một số vấn đề về Phật giáo Hoà Hảo và sự ảnh hưởng của Phật giáo Hoà Hảo
đến hoạt động an ninh, trật tự truyền thống tự ở miền Tây Nam Bộ trong giai
đoạn từ năm 1975 đến nay”.
2. Tình hình nghiên cứu đề
tài.
Từ
khi ra đời (1939) đến nay, Phật giáo Hoà Hảo vốn là một trong những vấn đề được
cả xã hội quan tâm. Vì vậy, trong giai đoạn từ 1975 đến nay, trên cơ sở chức
năng và nhiệm vụ của các cơ quan đơn vị ở địa phương có đồng bào theo đạo đã có
sự nghiên cứu tìm hiểu về Phật giáo Hoà Hảo. Tuy nhiên, vì là Tôn giáo nội
sinh, lại ra đời muộn hơn so với các tôn
giáo khác, tín đồ tương đối đông tập trung nhiều ở một số tỉnh miền Tây Nam Bộ
như: An Giang, Đồng Tháp, Thành phố Cần Thơ, Vĩnh Long… không ảnh hưởng và lan
rộng đến các vùng khác điển hình như là miền Bắc. Do vậy, các vấn đề nghiên cứu
về Phật giáo Hoà Hảo thường là những vấn đề cụ thể, vụ việc và khai thác ở
nhiều góc độ khác nhau. Có thể nói, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên
cứu một cách toàn diện về Phật giáo Hoà Hảo.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ
nghiên cứu.
-
Với lý do chọn đề tài ở trên, do vậy đề tài nghiên cứu được xác định bởi hai
mục tiêu chủ yếu sau:
+
Trên cơ sở lý luận chung về Tôn giáo, nguồn gốc và sự ra đời của Phật giáo Hoà
Hảo, vấn đề cơ bản về giáo lý, luật lệ lễ nghi; Lịch sử tồn tại và phát triển
của Phật giáo Hoà Hảo và từ thực trạng về tình hình hoạt động ảnh hưởng đến an
ninh trật tự của các đối tượng của Phật giáo Hoà Hảo… góp phần nâng cao nhận
thức và hiểu đúng về Phật giáo Hoà Hảo ở phạm vi rộng, đặcbiệt là các vùng có
tín đồ theo đạo.
+
Từ đó, đưa ra kiến nghị đề xuất một số chính sách, đặc biệt là giải pháp thực
hiện để xử lý tốt mối quan hệ giữa tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng với đấu
tranh chống các phần tử lợi dụng tôn giáo để thực hiện “Diễn biến hoà binhg”
chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam. Đảm bảo an ninh trật tự ở địa bàn có tín
đồ Phật giáo Hoà Hảo.
-
Để đạt được mục tiêu đề ra ở trêm, nhiệm vụ của đề tài như sau:
+
Khái lược lý luận chung về Tôn giáo, khái quát về nội dung cơ bản của Phật giáo
Hoà Hảo.
+
Tập trung làm rõ tình hình hoạt động có ảnh hưởng đến an ninh trật tự của các
đối tượng trong Phật giáo Hoà Hảo và công tác đấu tranh của ta từ năm 1975 đến
nay.
+
Đưa ra các giải pháp sao cho thiết thực và đúng theo đường lối chủ trương của
Đảng và Nhà nước Việt Nam, nhămg góp phần đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn
có Tôn giáo (đạo Hoà Hảo).
4. Phạm vi và phương pháp
nghiên cứu.
-
Về phạm vi: Mặc dù có nhiều vấn đề liên quan đến đạo Hoà Hảo đã, đang và sẽ
được nghiên cứu, và ở đây đề tài cần tập chung vào những vấn đề liên quan đến
Phật giáo Hoà Hảo từ phương diện các phần tử phản động lợi dụng Phật giáo Hoà
Hảo làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự ở miền Tây Nam Bộ trong giai đoạn từ năm
1975 đến nay.
-
Về phương pháp nghiên cứu:
Trên
cơ sở nền tảng phương pháp luận Mác xít, đề tài đã sử dụng một số phương pháp
cơ bản như: thống kê, phân tích tổng hợp… để làm rõ hơn và mô tả một cách chân
thực về Phật giáo Hoà Hảo.
5. Kết cấu của đề tài:
Ngoài
phần mở đầu, phần kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm 3
chương 9 tiết: Ba chương đó là:
-
Chương I: Lý luận chung về Tôn giáo.
-
Chương II: Vài nét cơ bản về Phật giáo Hoà Hảo.
-
Chương III: Tình hình hoạt động ảnh hưởng đến an ninh trật tự của các đối tượng trong Phật giáo Hoà Hảo và
công tác đấu tranh của ta từ năm 1975 đến nay.
Phần
Nội dung
Chương
I: Vài nét về Phật giáo Hoà Hảo
1. Nguồn gốc và sự ra đời của
Phật giáo Hoà Hảo.
Ngay
từ buổi đầu khai sáng nền đạo Phật giáo Hoà Hảo đã được Đức Huỳnh Giáo chủ tiếp
thu kế thừa những nét đặc sắc trong các tín ngưỡng Tôn giáo khác nhau, tạo lập
nên một Tôn giáo dân tộc với giáo lý: “học Phật, tu Nhân”.
Phật
giáo Hoà Hảo là một trong sáu tôn giáo lớn đang được tự do hành đạo ở Việt Nam,
là tôn giáo nội sinh lớn lên từ lòng dân tộc và luôn gắn liền với từng giai
đoạn lịch sử dân tộc. Trải qua 66 năm giáo lý Phật giáo Hoà Hảo đã đang có mặt
trong sinh hoạt xã hội Việt Nam và được nhận là tôn giáo có quan hệ mật thiết
cùng người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng với cộng đồng người dân
Việt Nam nói chung. Do vậy trước tiên ta tìm hiểu điều kiện cơ bản cho sự ra
đời của Phật giáo Hoà Hảo.
1.1.
Điều kiện ra đời của Phật giáo Hoà Hảo.
Như
chúng ta biết Phật giáo Hoà Hảo ra đời
năm 1939, gắn chặt chẽ với vai trò sáng lập của ông Huỳnh Phú Sổ và phát
triển chủ yếu ở miền Tây Nam Bộ. vậy
chúng ta lý giải vì sao Phật giáo Hoà Hảo gắn liền với miền Tây Nam Bộ?
Đầu
thế kỷ XVII khi những người Việt đầu tiên khai phá, thì vùng đất đồng bằng sông
Cửu Long còn hoang vu, đất đai tuy mầu mỡ, song rừng rậm bùn lầy, hổ, báo, rắn,
trăn,lũ lụt, bệnh tật… luôn rình rập con người. Khác với đồng bằng Bắc Bộ, nơi
có những con đê hàng trăm năm giữ cho
ruộng làng không đổi, nơi những
tổ chức những luật lệ đã hình thành từ bao đời gò ép con người, ở vùng
đất này tất cả dường như bắt đầu.
Những
lớp người di dân đầu tiên ấy, thoạt tiên là những anh lính cùng vợ con họ. Tiếp
đó, là những kẻ tội đồ, những tù binh và những người nghèo khó hay những
người bị o ép đến mức phải rời bỏ quuê
hương. Trải qua công cuộc khẩn hoang mang tính chất tự nhiên với bao gian lao
vất vả chống lại thiên nhiên, thú dữ,
giữa những con người ấy và đời sống ấy
đã hình thành một tính cách Nam Bộ: giản dị đến mức đơn giản, thẳng thắn
đến mức bốp chát, trọng nghĩa khí đến mức xả thân, ghét sự tính toán hơn thiệt,
không ưa lý thuyết suông và trên hết là một tinh thần bất khuất trong yêu nước
vảtong đấu tranh chống cường quyền. Đối với ho giàu nghèo không quan trọng là
sống có đạo lý, mà đạo lý trước hết là sống có nghĩa với cha mẹ, anh em, bạn bè
và đất nước.
Trong
số họ, dần dần hình thành những người ưu
tú, họ nêu lên tấm gương có lối sống có tình nghĩa, có khả năng chiếu dân lập
ấp, tổ chức khai khẩn đất đai, có uy tín trong việc giải quyết tranh chấp, có
thể trị bệnh cứu người bằng thuốc Nam hay bằng bùa chú. Họ trở thành anh hai,
tiền thân của nhiều ông đạo sau này. Luật lệ tổ chức nơi đất Bắc được thay thế
bởi uy tín của những anh hai. Tính chất anh hai là một điều đáng lưu tâm khi lý
giải những phong trào quần chúng, kể cả
những phong trào tôn giáo ở Nam Bộ.
Do
vậy, không chỉ trống vắng về tổ chức, về luật lệ trên mảnh đất này còn trống
vắng cả sự chăm sóc cho đời sống tâm linh. Các nhu cầu này không thể không đáp
ứng, thế là một số anh Hai, những lãnh tụ di dân, của dân di cư phải kiêm
nghiệm cả chức năng này. Một trong số họ
từng là nhà nho, thầy lang, nhà sư,
thầy địa lý, thầy phù thuỷ… họ được gọi là ông đạo. Có mẫu số chung giữa
các ông đều là những người chiêu dân lập ấp, là những người biết trị bệnh cứu
người . Tất cả các ông đều có cách sống làm cho mọi người xung quanh thấy cao
siêu và tôn sùng… Một tay các ông đạo đó có ông Đoàn Minh Huyên – là một ông
Đạo lớn hơn hết các ông Đạo – người đã gây nên cả một phong trào tôn giáo kéo
dài, khi bùng lên , khi âm ỷ, mà đỉnh cao
của nó là Phật giáo Hoà Hảo.
Song
nơi đất Mẹ sinh ra Phật giáo Hoà Hảo đó
là làng Hoà Hảo, là một làng thuộc quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc trước đây. Ngày
nay thuộc địa giới hành chính xã Phú Mỹ
và một phần xã Tân Hoà huyện Phú Tân, tỉnh An Giang. Ngoài những nét chung của
một làng miền Tây Nam Bộ, làng Hoà hảo còn có một số đặc điểm địa lý đáng chú ý
khác: là một làng có ba bề sông nước gồm sông Tiền, sông Hậu, sông Vòm Nao (con
sông nối liền Việt Nam – Campuchia (tính theo đường chim bay không đầy 30 km)).
Từ xa xưa, nơi đây cùng với vùng Thất Sơn hợp thành “Châu Đốc Tân Cương” được
coi là nơi biên xa sôi, hiểm trở của
miền Tây Nam Bộ. Làng Hoà hảo là làng
mới hình thành từ cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 theo cách thức chung của triều
Nguyễn là mở mang các vùng dân cư nơi biên viễn và được ổn định vào thời kỳ Minh Mạng.
*
Về kinh tế: Vào đầu những năm 30, bắt nguồn từ chính sách “Đại khai thác” của thựcdân Pháp sau chiến
tranh thé giới lần thứ nhất Việt Nam bước vào cuộc khủng hoảng kinh tế nặng nề
và kéo dài, vì là xứ nông nghiệp độc canh nhưng giá lúa hạ rất thấp chỉ còn
phần ba, phần tư trong khi thuế vẫn giữu nguyên. Thợ, thầy thất nghiệp, nhân
dân đói khổ cùng cực, cuộc sống tạm bợ qua ngày. Làng Hoà Hảo cùng không nằm
ngoài số đó, song có lẽ là nơi “biến viễn” xa sôi nên ở đây có bịảnh hưởng
nhưng không đến mức nặng nề. Như nhiều vùng khác của miền Tây Nam Bộ làng Hoà
Hảo cũng là vùng thuần nông. Tuy nhiên, do đất thì chật mà con người thì đông,
do vậy ở đây dần dần hình thành nghề thủ công vàcác hoạt động dịch vụ, nghề rèn
nổi tiếng khắp miền tây cũng được ra đời… Có thể nói rằng, chờ cơ cấu bàn nông, bàn công được bổ sung banừg thương
nghiệp và dịch vụ với qui mô thi tứ mà
dân làng Hoà hảo có đời sống tương đối ổn định và khá hơn các vùng khác, đồng
thời có điều kiện giao lưu văn hoá hơn các vùng khác, đồng thời có điều kiện
giao lưu văn hoá và chịu tác động ảnh hưởng về xã hội những nơi khác nhiều hơn.
*
Về chính trị – xã hội:
Đạo
Hoà Hảo ra đời trong bối cảnh chiến tranh thế giới lần thứ hai vừa nổ ra. Lúc
này ở Việt Nam thì Pháp và Nhật đang tranh giành sự ảnh hưởng, làm cho tình
hình ở Việt Nam thuộc địa vốn đang căng thẳng lại càng căng thẳng thêm. Đồng
thời, Nhà nước phong kiến Việt Nam và hệ tư tưởg phong kiến đang đứng trước bờ
vực thẳm, thì Nhà nước bảo hộ ở Việt Nam lại tăng cường “sống gấp” trước cái
chết gần kề. Hệ tư tưởng tư sản đã tỏ ra bất lực. Một số trí thức yêu nước vốn
là học trò của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh cũng thực sự tỏ ra bế tắc về đường lối. Và thời kỳ này
thực dân Pháp vào triều đình Huế tích
cực đàn áp nên các hoạt động bị hạn chế, phong trào tạm thời đi vào thoái trào.
Do vậy, nhân dân lao động phải đi tìm cho mình một chỗ dựa tinh thần. Chính vì
thế, dù ở miền Tây Nam Bộ xa sôi, nơi biên viễn – Huỳnh Phú Sổ đứng rs khai đạo
thì những người nông dân vốn thuần phác đã nhanh chóng tìm đến và tự nguyện làm
tín đồ.
Bên
cạnh đó, một vấn đề xã hội có liên quan đến sự ra đời của Phật giáo Hoà Hảo là
phong trào “Chấn hưng Phật Giáo” mà theo lời
của giáo sư Trần văn Giàu rằng: Phật tử phê phán Phật Giáo suy đồi ở hai
điểm chính là dốt và hư. Trong những năm 30, phong trào này có ý nghĩa “cải tà”
vừa là mở đường cách tân cho Phật giáo. Chính những hoạt động đó của các “ông
đạo” và quần chúng xã hội và đồng thời cũng là điều kiện cho các phái Phật giáo
biến dạng ra đời. Có thể nói rằng vào thời kì này vùng đất miền Tây Nam Bộ là
nơi an toàn cao độ, cho lực lượng chống đối trong đó có cả chống đối về mặt văn
hoá mà không bị quần chúng cô lập. Vì vậy, vùng Thất Sơn đã trở thành khu đất Thánh đào tạo những con
người mộng làm cách mạng bằng cách tu luyện các pháp đạo. ý niệm Bứu sơn – Núi
Báu là một nỗi ám ảnh không rời những
con người ở nơi đó.
Đặc
điểm cơ bản nhất bao trùm nhất của địa
dư này là nơi có truyền thống sản sinh ra các loại tín ngưỡng tôn giáo
bản địa, các dòng tiên tri trong thời kỳ từ thế kỷ XIX đến thế kỷ XX. Khởi đầu
của dòng tiên tri Nam Kỳ Bửu Sơn Kỳ hương, đây là một loại tín ngưỡng mà về sâu
được nhiều học giả xác nhận là “cha đẻ” của dạng Hoà Hảo. Giáo chủ của Bửu Sơn Kỳ Hương là Đoàn MInh Huyên (1807 –
1856) tại làng Tòng Sơn, tổng An Tịnh, huyện Vĩnh An, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh
Thạnh (Sađec) nay thuộc tỉnh An Giang.
Ông
đi từng vùng này đến vùng khác trị bệnh, người dân tìm đến ông trị bệnh rất
đông. Vừa trị bệnh vừa nói những lời nói khó hiểu có tính chất sấm truyền, vừa
giảng đạo thuyết pháp, quy y cho mọi người . Mùa thu năm 1849 tín đồ theo ông rất đông, mỗi người được cấp một mảnh giấy chứng nhận trên đó
đóng triện 4 chữ Bửu Sơn Kỳ Hương. Có thể xem năm 1849 là năm ra đời của tông
phái này. Và ông Đoàn Minh Huyên được tôn sùng như Phật sống. Sự tập hợp quần
chúng quanh ông đã gây nếnự longại cho chính quyền địa phương lúc bấy giờ. Do
vậy, ông bị chính quyền buộc phải đến tu ở chùa Tây An (An Giang) ở đây ông
tiếp tục truyền giảng, tín đồ tham gia ngày càng đông, họ tôn xưng ông là Phật
Thầy Tây An. Lúc ông mất (12/8 Bính thìn 1856) qua 7 năm hành đạo, ông đã tạo
lập một cơ sở xã hội vững chắc và rộng lớn ở miền Tây. ở đây có thể cho rằng:
Chính công cuộc truyền đạo của ông do gắn liền với công cuộc chiêu dân lập ấp,
với việc tổ chức cho công cuộc khai phá
đất đai, là một nguyên nhâ quan trọng nhất khiến cho Bửu Sơn Kỳ Hương dù
có lúc thăng trầm song vẫn tồn tại dai dẳng. Tín đồ của ông không tin là ông
chết, họ yin rằng ông bất tử , ông hcỉ đi tới miền cực lạc rồi sẽ có ngày ông
trở về. Vì khi còn sống ông thường nói những câu mơ hồ về ngày ông sẽ trở lại:
Chừng nào gốc mục lên chồi
Ta vưng rắc lệnh tái hồi trần gian
Điểm
cần chú ý trong sự khác nhau giữa Bửu Sơn Kỳ Hương với Phật giáo truyền thống
là việc ông Huyên thể hiện tư tưởng dân tộc trong giáo lý của đạo mình: “loài
cầm thú còn biết tổ huống chi người nỡ bỏ từ ân” (giác mê của Phật Thầy) Nguyên
Thuỷ “từ ân” của ông Huyên là: Ân trời Phật, ân Quân vương, ân cha mẹ, ân sư
phụ; (chứ không hẳn “từ ân” được hiểu sau này của Phật giáo Hoà Hảo: ân tổ
tiên, ân đất nước, ân tam bảo, âm đồng bào) Từ đó khi xây dựng giáo lý học
phật, tu nhân (học phật là noi gương Đức
Phật tổ cùng các chư phật màtu hành) Điều cốt lõi là làm lành tránh dữ mà không
cần khổ hạn hay thoát tục. Phương pháp tu hành chủ yếu là tĩnh tâm, tích cực
làm công việc công đức để đền đáp từ ân.
Nghi lễ cũng rất đơn giản, thay cho việc tụng kinh niệm phật, ông Huyên cho thờ
tấm trần điếu (màu đỏ điếu, trong khi đó tín ngưỡng truyền thống cũng như của
phật giáo đại thừa dùng màu đỏ tươi tượng trưng cho thần linh) Sau này khi
Huỳnh Phú Sổ xuất hiện đã thay màu đỏ điếu bằng màu đỏ già, màu giá trên tấm
trần già.
*
Về đặc điểm địa lý: Có nhiều công trình
nghiên cứu về sử học, dân tộc học, xã hội học đã xác định rằng: Xã hội nông dân
miền Tây về lịch sử là một xã hội mới được định hình, người dân ở đây chủ yếu
là từ các xứ sở xa đến, họ từ miền Trung và miền Đông Nam Bộ di cư đến từ cuối
thế kỷ XVIII. Họlà những người nông dân chất phác giản dị trong điều kiện ít va
chạm về mặt xã hội nên họ có đức tín dễ
tin và khi đã tin thì rất chung thuỷ với
niềm tin của mình. Có thể nói, đây là
điểm gặp nhau giữa đặc điểm tâm lý của những người “tân” tín đồ với giáo lý đơn
giản dân dã của đạo Hoà hảo và phát
triển trong cộng đồng người dân Nam Bộ.
Trong
luận án Phó tiến sĩ khoa học lịch sử: “Đời sống xã hội và tâm lý nông dân ở
làng Hoà Hảo tỉnh An Giang trước và sau năm 1975. Mã số 50310 thành phố Hồ Chí
Minh của PTS. Phạm Bích Hợp” Nhưng bù lại chính
chiều sâu tâm lý với việc vận dụng dị hoá các giáo lý đơn giản hoá các
biểu tượng và ngôn ngữ tôn giáo, bám sát vào truyền thống bản địa… đã làm cho
đạo Hoà Hảo được hưởng ứng rộng rãi và có tổ chức lâu bền trong đời sống tinh
thần của người nông dân Nam Bộ.
Đặc
điểm tình hình của người dân Nam Bộ, họ dễ hoà đồng, dễ dung nạp, đặc biệt là ở
những nơi vùng “biên viễn” xa sôi, vùng xa văn hoá Triều đình. Một mặt phái
chịu thiệt thòi là xa ánh sáng văn hoá,
mặt khác họ lạíit chịu ảnh hưởng hệ thống tư tưởng, đạo đức của phong kiến cung
đình. Chính vì vậy, họ dễ dàng tiếo nhận hệ tư tưởng của các ông đạo, không cần
có sự lựa chọn. Và tất nhiên các yếu tố trên cũng chỉ là điều kiện vì sự ra đời
của tôn giáo không xảy ra nêu như không có người khởi xướng. vậy chúng ta cùng
timd hiểu sơ lược về người khởi đầu của đạo Hoà hảo.
1.2.
Vài nét về giáo chủ Huỳnh Phú Sổ
Huỳnh
Phú Sổ sinh ngày 15/01/1920 (21/11 Kỷ Mùi) tại làng Hoà Hảo quần tân Châu, tỉnh
Châu Đốc (nay thuộc tỉnh An Giang) Cha ông là Hương cả Huỳnh Công Bộ, mẹ là bà
Lê Thị Nhậm.
Huỳnh
Phú Sổ là con thứ ba và là trưởng Nam, vì thế ông còn có cái tên khác như Tư
Sển, Thầy Tư Hoà hảo… Năm ông được sinh
ra, lag khi những người yếu nước Việt Nam đang tìm con đường đấu tranh cho độc
lập dân tộc. Các tôn giáo cổ truyền đang
gặp khó khăn, phải trải qua cuộc chuyển mình lớn. Đời sống nhân dân lao động
cực kỳ khốn khổ sau cuộc đại chiến thế gới lần thứ nhất.
Thuở
thiếu thời Tư hay ốm đau, yếu ớt, nên mặc dầu thông minh nhanh nhẹn, mặt mũi
khôi ngô, học hành khá nhưng khi đỗ sơ học yếu lược, cậu đành bỏ học. Điều kiện
gia đình khá giả nên cha cậu Tư mọi cách để chạychữa đưa cậu lên núi Tà Lơn ở
biên giơí Camphuchí, và nên Thất Sơn chữa bệnh, vấn đề này được tác giả Tọ Cồn
Đại Trường trong tác phẩm “Thần, người và đất Việt” đã viết: “Sống trên vùng
đầy không khí huyền hoặc Kỳ bí của các ông đạo ta, đạo Miên, của bùa chú, ngồng
ngãi… thì cậu Tư được ông Bà Hương Cả dắt lên Thất Sơn cho ông thầy Xom (đạo
xom) núi Trà Sư chữa bệnh hay nhờ cậy một ông thấy Pháo cố ngồng ngãi Thổ xiêm
từng lên núi Tà Sơn (dãy Bokor) cũng là điều kiện tự nhiên”.
Sự
vhuyển biến lớn diễn ra trong tâm hồn của cậu, nhưng do tính trầm lặng do vậy
người thân không nhận thấy gì. Những điều kiện cho sự hình thành một ông đạo
mới dần dần hội tụ ở chàng trai 21 tuổi này là: Nhờ thuộc lòng nhiều thơ giảng
của các lãnh tụ Bửu Sơn Kỳ Hương, cậu có thể nói thành thơ,khẩu khí có gì đấy
tương tự nội dung cũng gần vậy, cũng giáo huấn người ta tu nhân học Phật, cũng Từ Ân Hiếu Nghĩa và cùng
tiên tri khó hiểu. Bên cạnh đó ông cũng được phác bài thuốc Nam để chữa bệnh.
Ngày
18/5 năm Ky mão 1939 ông Huỳnh Phú Sổ làm lễ thụ ký, xin đầu làm con Phật. Và
ngày nay về sau được xem như là ngày sáng lập ra đạo Hoà Hảo.
Sau
khi làm lễ, xin đầu làm con của Phật, người dân kéo nhau tới chiêm ngưỡng, nghe
giảng, để chữa bệnh ngày càng đông, ảnh hưởng của ông kochỉ trong tỉnh mà còn
lan rộng ra nhiều tỉnh khác khiến nhà cầm quyền Pháp lo ngại. Lúc bấy giờ tín
đồ của ông ngày càng tăng lên họ tôn xùng ông như Phật sống và lấy tên ông làm
teen môn phái mới: Phật giáo Hoà Hảo.
Ngày
12/04/1940 thực dân Pháp cho mời Huỳnh Phú Sổ lên Châu Đốc rồi sau đó chuyển
ông về Sađic và giao cho mật thám theo dõi. Thời kỳ này ông đã viét 4 cuốn sấm
thi với 2546 câu thơ sấm.
THáng
10/1942 hiến binh Nhật thấy có lợi trong việc giành giật ông Huỳnh Phú Sổ với
Pháp. Cậu Tư cũng nhận thấy thế của phát
xít Nhật ở Đông Dương và ở Việt Nam, đồng thời Nhật cũng đã giúp ông điều kiện
thuận lợi trong hoạt động tôn giáo và hoạt động
chính trị. Lập ra đảng chính trị “Việt nam phục quốc đồng minh hội” với
chủ trương bài pháp chống Việt Minh. Lúc này ông chịu sự ảnh hưởng rất lớn từ
Nhật.
Năm
1945 Huỳnh Phú Sổ liên tục lập ra 3 tổ chức chính trị đó là: “Việt nam độc lập
vận động hội”, “Việt Nam phật giáo liên hiệp hội”, “mặt trận quốc gia thống
nhất” và 2 lần tổ chức cướp chính quyền
nhưng đều thất bại.
Khi
Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ 2 Huỳnh Phú Sổ tìm cách dựa vào Pháp để củng cố
lực lượng chống Việt Minh, thực hiện
tham vọng “Vương quốc Hoà Hảo” Thành lập “Mặt trận quốc gia liên hiệp”
gồm các đảng phái và tôn giáo. Sau khi bị tướng Nguyễn Bình giải tán, ông đã nhận lời tham gia Uye ban hành chính kháng chiến Nam
Bộ với chức vụ là Uỷ viên đặc biệt.
Sau
đó, ông Sổ lập ra mặt trận Quốc gia Dân chủ, tháng 9 năm 1946 ông lạicùng
Nguyễn Bảo Toàn, Trần Văn Sâm, Trần Văn An lập ra đảng Việt Nam dân chủ xã hội do ông làm thủ lĩnh. Thực chất
đây là đảng của Phật giáo Hoà Hảo, tiếp đó tháng 2 năm 1947 lực lượng vũ trang
Hoà Hảo đã bắt 400 Việt Minh vàgia, tại Giồng Bánh Lái. Ngày 16/04/1947 theo
chương trình đã định, uỷ ban hoà giải đã họp tai trụ sở uỷ ban Long Xuyên ở Đốc
Vàng. Vì sự biến cố ngày
15/4/1947 nên sau cuộc họp, ban hoà giải định tới nơi sảy ra để giải
quyết thì 21h cùng ngày Huỳnh Phú Sổ đã
dùng thuyền tón ra vàm Đốc Vàng, gặp bộ đội ta đang canh sát chặn lại, lực
lượng bảo vệ ông sổ và bộ đội ta bắn
nhau; sau đó ông được bộ đội ta hộ tống giải về Phong Phú, do Bửu Vinh chỉ huy.
Sau đó, Huỳnh Phú Sổ mất tích… và Lương Trọng Tường khai rằng ông Sổ chết tối
16/4/1947.
Kể
từ đó đến nay, tín đò Hoà Hảo vẫn cho rằng cộng sản đã giết thầy. Song họ lại
tin rằng: thầy chỉ tạm vắng mặt vãe có ngày thầy sẽ trở về.
1.3.
Đạo Hoà Hảo ra đời như thế nào?
Trong
thời hạn của tiểu luận, do vậy việc tiếp cận Hoà hảo với tư cách là một tôn giáo theo 3 đặc trưng sau:
Một
là: Thông qua tác giả là Huỳnh Phú Sổ, đạo Hoà Hảo đã có một hệ thống giáo
lý riêng, tức là những quan niệm riêng
về tự nhiên, xã hội… Dù rằng trong đó có trộn lẫn, pha tạp của tư tưởng Phật,
lão, Nho, cho rằng có sự kế thừa tư tưởng cốt lõi của Bửu Sơn Kỳ Hương, nhưng
giáo lý Hoà Hảo vẫn lảiêng, không thể trùng khít với một đạonào. và nó được bắt
đầu hình thnàh từ năm 1939 và đi vào ổn định vào năm 1945.
Hai
là: Về mặt xã hội, hệ thống giáo lý đó được một cộng đồng nhất định chấp nhận,
trong một thời gian ngắn đã có một lượng tín đò đông đảo tin theo, và đức tin
đó bền vững cho đến tận ngày nay. Trong
hoạt động tôn giáo, cộng đồng tín đồ đó đã từng có một tổ chức hành chính đạo
này thành giáo hội. Song theo giáo lý nguyên thuỷ, đây là một tôn giáo không có
giáo hội, sự liên kết cộng đồng chỉ là sự liên kết bằng đức tin.
ở
đây có một vấn đề thực tế đặt ra, đó là việc
Lê Quang Liêm nguyên hội trưởng của hệ phái Phật giáo Hoà Hảo đã nhiều
năm nay liên tiếp gởi đơn thư lên các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta
đòi” “tái phục hoạt động giáo hội Phật giáo Hoà Hảo”. Lý do mà ông Liêm đưa ra
là: Tổ chức giáo hội vốn được đề cập trong sấm giảng vàđó có tiền lệ từ thời
Huỳnh Phú Sổ giáo chủ. Song, bàng những chứng cớ do tư liệu của chính giáo hội
để lại, đề tài với giáo lý, vừa gây nhiêũ nhưỡng về mặt xã hội, vừa để lại
tiếng xấu cho nền đạo của Phật giáo Hoà Hảo mà thôi.
Ba
là: Cộng đồng tín đồ Hoà Hảo cùng chung một nghi lễ, luật lệ thờ cúng riêng họ,
không trộn lẫn với bất kỳ tôn giá nào khác. Nghi lễ được thực hành từ năm 1945
sau khi sáu quyển của Bộ: “sấm giảng thi văn toàn bộ ” ra đời và duy trì ổn định đến nay.
1.1.1. Thời kỳ 1975 đến 1985.
Hoạt
động chủ yếu của chúng trong thời kỳ này là vũ trang manh động, trắng trợn lợi
dụng những yếu điểm của ta như chính quyền còn non trẻ, thiếu cán bộ, cơ sở
quần chúng chưa vững chắc… mục tiêu của chúng ta muốn nhanh chóng khôi phục lại
những gì đã mất.
+
Giai đoạn 1975 – 1080: ở An Giang, trong vòng 5 năm chúng đã thành lập 175 tổ
chức, toán, cụm và trang đã gây ra hàng trăm vụ xâm hại An ninh quốc gia, mỗi
toán có số lượng từ 60 – 100 tên, trang bị cả súng trung liên và cối 60 ly… Mặt
khác, chúng còn tích cực nhen nhóm các tổ chức chính trị phản động. Sau khi bị
ta đấu tranh depk bỏ, đầu những năm 80 chúng đã chuyển sang hướng hoạt động
banừg hình thức bí mật, tăng cường các
biện pháp lôi kéo tín đồ, chuẩn bị lực lượng chờ thời cơ để nổi dậy chống phá.
Theo
báo cáo tổng kết công tác chuyên đề về Phật giáo Hoà Hảo năm 1996 của công an
các tỉnh như An Giang, Cần thơ, Thành phố Hồ Chí Minh và cục A38 cho biết: từ năm 1975 đến năm 1980
bọn phản động lợi dụng Phật giáo Hoà Hảo đã thành lập ở An Giang 175 tổ chức,
toán, cụm, vũ trang; Cần Thơ 51; Đồng Tháp 17; Vĩnh Long 12; Kiên Giang 5 số này đã gây hơn 300
vụ, việc xâm phạm an ninh trật tự, gây cho ta thiệt hạito lớn về người và của.
Điển hình như ở An Ging chúng ta đã phá hỏng một số cầu, 12 xe, làm 11 người
chết và 56 người bị thương.
+
Giai đoạn 1981 – 1985: Bọn phản cách mạng trong Phật giáo Hoà Hảo đẩy mạnh hoạt
động chiến tranh tâm lý, mê tín dị đoan để hù doạ khống chế tín đồ về mặt tư
tưởng như: rải truyền đơn, tuyên truyền rỉ tai: “Minh vương xuất hiện”, “Rắn
nổi”, “sói lở”, “Sao chổi xuất hiện”, “ếch nói”, “Mưa màu”, “Cồn tiên nổi”…
phục hồi các tập tục cũ như búi tóc dài, mặc đồ đen, ăn chay trường, lôi kéo
giành giật tín đồ, quần chúng không để họ ngẻ về phía cách mạng. Lúc này xu
hướng lập lại các tổ chức hệ thống giáo hội, Đảng dân xã và Bảo an Phật giáo
Hoà Hảo luôn gắn liền với việc tuyên truyền giáo lý, vận động quần chúng giữ
đạo, chờ thời cơ sẽ có ngày “đổi đời”, “Thầy về”, nhằm tìm cách cột chặt quần
chúng tín đồ vào thần quyền, giáo lý, vào các tổ chức mới phục hồi của chúng.
Đặcbiệt là chúng đưa người vào các hoạt động trong các tổ chức từ thiện nhân
đạo của ta, các tổ chức Đảng, chính quyền và đoàn thể quần chúng để phá hoại,
làm lũng đoạn nội bộ, chia rẽ giữa Đảng, chính quyền với các tín đồ Phật giáo
Hoà Hảo.
Vậy
chúng ta có thể khẳng định rằng nếu như ở giai đoạn 1975 – 1980, các thế lực
phản động lợi dụng Phật giáo Hoà Hảo ráo riết đẩy mạnh các hoạt động vũ trang,
bạo loạn với hình thức công khai trắng
trợn thì ở giai đoạn 1981 – 1985 chúng đã chuyển vào hoạt động bí mật và hoạt động của chúng gắn chặt với
việc tranh giành, lôi kéo quần chúng tín
đồ, chuẩn bị lực lượng chính trị chờ thời cơ chống phá cách mạng Việt Nam.
1.1.2. Thời kỳ từ năm 1986
đến nay.
Các
tín đồ Phật giáo Hoà Hảo – phần tử phản động đã lợi dụng những diễn biễn phức
tạp của tình hình quốc tế và khu vực. Lợi dụng đường lối, chính sách đổi mới
việc đề cao và mở rộng nền dân chủ trong
các lĩnh vực đời sống kinh tế – xã hội, các thế lực phản động lợi dụng Phật
giáo Hoà Hảo đã chuyển sang hoạt động phát triển tôn giáo, đòi vỉtí hợp pháp
của các tổ chức giáohội, chuẩn bị lực lượng chờ thời cơ cụ thể là:
+
Đòi phục hồi hệ thống tổ chức ban trị sự, đẩy mạnh các hoạt động hành hương,
tập trung đông người vào các dịp lễ nhằm biểu dương lực lượng gây thanh thê. Có
lần chúng đã tổ chức thành đoàn đi Hà Nội khiếu kiện, yêu sách đòi bỏ cơ sở vật
chất hiện đang bị chính quyền quản lý.
+
Tuyên truyền trong tín đồ mối hậnthù với cộng sản: “Giết thầy, phá đạo”, dựng
lên những câu chuyện hoang đường mê tín dị đoan để tác động tư tưởng tín đồ,
đẩy mạnh hoạt động từ thiện với mục tiêu là lôi kéo, giành giật quần chúng tín
đồ tạo hậu thuẫn về chính trị.
+
Chuẩn bị lực lượng ngầm bằng việc tiếp
tục hoạt động phục hồi các tổ chức như Đảng dân xã, Bảo an, Ban trị sự.
Vậy
ở thời kỳ này, mặc dù số lượng vụ việc xảy ra không nhiều so với thời kỳ 1975 –
1985 nhưng hoạt động của bọn phản động lợi dụng Phật giáo Hoà Hảo trở nên tinh
vi, xảo quyệt và nguy hiểm nhiều so với thời kỳ trước, bằng việc lợi dụng diễn
biến phức tạp của tình hình kinh tế thế giới và khu vực lợi dụng đổi mới và xu
thế mở rộng dân chủ hoá trong nước để đòi phục hồi hệ thống tổ chức giáo hội,
phát triển đạo, tạo chỗ dựa và làm hậu thuẫn cho bọn phản động, xây dựng lực
lượng ngầm chờ thời cơ chiếm lại vị trí chính trị đã mất.
1.2.
Phật giáo Hoà Hảo ở nước ngoài và hoạt động của các đối tượng lợi dụng Phật
giáo Hoà Hảo lưu vong.
-
Trước tiên ta tìm hiểu một số đặc điểm của Phật giáo Hoà Hảo lưu vong ở nước
ngoài:
+
Các tổ chức Phật giáo Hoà Hảo lưuvong được hình thành trong một quá trình và
bằng nhiều con đường khác nhau. Thời điểm mở đầu và nổi bật nhất của quá trình
là từ năm 1975. Với luận điệu sẽ có một cuộc “tắm máu” trả thù sau giải phóng
và với việc thựchiện “kế hoạch hậu chiến”, đế quốc Mỹ và các thế lực phản động
lừa gạt, thúc ép người Việt Nam di tản
ra nước ngoài. Tín đồ và chức sắc phản động trong v cũng là một bộ phận
trong số đó di tản ra nước ngoài. Bên cạnh đó từ năm 1975 đến
nay, bằng các con đường như xuất cảnh trái phép, đi theo các chương trình 40,
ODP, AC cùng với việc phát triển tín đồ ở nước ngoài làm tăng số lượng tín đồ
Phật giáo Hoà Hảo lưu vong.
Năm
1986, với công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, mở rộng dân chủ, thực hiện
đường lối đối ngoại mở rộng: “Đa phương hoá, đa dạng hoá với tinh thần Việt Nam
muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới”. Những hoạt động nổi
bật trong thời kỳ này là đẩy mạnh hoạt
động mở rộng, phát triển địa bàn, hình thành hệ thống tổ chức Phật giáo Hoà Hảo
hải ngoại hòng xây dựng tổ chức có thực lực lớn mạnh, có vị trí và ảnh hưởng
trong phạm vi quốc tế. Hiện nay, theo các tài liệu được biết, cho đến nay Phật
giáo Hoà Hảo lưu vong có mặt ở một số nước của 4 châu: Châu á, châu Âu, châu
Mỹ, châu úc… trong đó có 3 trung tâm lớn là Mỹ, Pháp và Anh. ở Mỹ trong 17 tiểu
ban có tới 32 ban trị sự; Canađa có 1; tại Châu Âu gồm Đức, Pháp và Hà Lan có 6
bảntị; tại 8 bang của australiba đều có
ban trị sự, đồng thời ở thủ đô Carbera có văn phòng đại diện của 8 ban trị sự
địa phương. Tại 6 trại tỵ nạn người Việt Nam ở các nước Philippin, Malaysia,
Inđônêsya và Thái Lam đều có ban trị sự; ở Nhật có 1 ban trị sự. Các ban trị sự
ở các nước nói trên thì 3 ban trị sự ở Mỹ như Washington do Lê Thái Hoà làm hội
trưởng có cơ quan ngôn luận là tờ “Đuốc từ bi”; Ban trị sự ở Cabiformia do
Nguyễn Hùng Quyền làm hội trưởng, có cơ quan ngôn luận là tờ “Dân Hoà” và Ban
trị sự ở Texas do Vũ Công Minh làm hội trưởng. Đây là tổ chức có ảnh hưởng và
chi phối lớn đối với Phật giáo Hoà Hảo lưu vong.
-
Về đường lối hoạt động của hệ thống ban trị sự Phật giáo Hoà Hảo hải ngoại hiện
nay làtiếp tục củng cố kiện toàn các ban trị sự đã có và mở rộng đến các vùng,
các địa phương ở nước ngoài. Thu hút các tín đồ Phật giáo Hoà Hảo lưu vong vào
các tổ chức của giáo hội hải ngoại. Thông qua các tổ chức quốc tế như Liên Hiệp
Quốc, Uỷ ban nhân quyền của Liên Hiệp Quốc, các tổ chức phi chính phủ, tranh
rhut sự ủng hộ của chính phủ Việt Nam cho Phật giáo Hoà Hảo trong nước có giáo
hội và phục hồi hoạt động như thời điểm
trước năm 1975.
Song
thực trạng của Phật giáo Hoà Hảo lưu vong hiện nay có tổ chức nhưng không có
lực lượng và thực lực như họ mong muốn của họ. Vì Ban trị sự lập ra đều do mục
đích cá nhân và phe nhóm, với sự đầu cơ
chính trị và trục lợi kinh tế nên thường xuyên mâu thuẫn dẫn đến đấu đá lẫn
nhau và không thống nhất.
-
Hoạt động của bọn phản động lợi dụng Phật giáo Hoà Hảo lưu vong chống phá cách
mạng Việt Nam ở nước ngoài trong những năm qua thể hiện chủ yếu qua những đặc
trưng cơ bản:
+
Tập hợp thu hút những phần tử phản động di tản ra nước ngoài để hình thành,
củng cố tổ chức Phật giáo như trước năm 1975, thành lập các tổ chức mới nhằm
giữ vững đội ngũ, bảo toàn lực lượng ở trong nước. Các tổ chức đó là đảng Dân
xã do Lê Phước Sang cầm đầu lưu vong ở Mỹ “Hội đồng bảo Pháp”, do nhóm cựu sỹ
quan Bảo an nắm giữ: “Hội đồng chiến sĩ Hoà Hảo dân xã”, tổ chức “Huỳnh Phú Sổ
huynh đệ thế giới” ở Mỹ.
+
Liên minh, liên kết với các tổ chức tôn giáo, các tổ chức chính trị phản động
Việt Nam lưu vong, bị bọn đế quốc và bọn phản động quốc tế lợi dụng hình thành
các tổ chức chính trị tôn giáo để phối hợp hành động chống phá Việt Nam.
Với
một số điển hình như: “Hội đồng Việt Nam cho một Việt Nam tự do” thành lập năm
1988 tại Mỹ do: Lê Phước Sang (nguyên Viện trưởng Đại học Phật giáo Hoà Hảo)
làm chủ tịch, có Ban Chấp hành gồm 41 tín đồ đại diện. Tổ chức này đã phối hợp
với “Uỷ ban Hoa Kỳ cho một nước Việt Nam tự do” có sự tham gia của một số chính
khách của chính phủ Hoa Kỳ và chế độ Sài Gòn cũ, có văn phòng thường trực đặt
cạnh cơ quan Liên Hợp Quốc với đủ tư cách
là quan sát viêm. “Uỷ ban chống đàn áp tôn giáo tại Việt Nam” thành lập
năm 1994 tại Anh gồm đại diện của các tôn giáo Việt Nam lưu vong tại Anh, trong
đó có Phật giáo Hoà Hảo và “Ban bảo trợ thương phế Việt Nam cộng hoà, cô nhi
quả phụ và Phật giáo Hoà Hảo” do Lương Thị Nga (con gái Lương Trọng Tường) và
Lê Thái Hoà (Hội trưởng Hội Phật giáo Hoà Hảo tại Hoa Kỳ) cầm đầu, tổ chức này
còn quy tụ mốtố luật gia, tri thức Việt Nam lưu vong ở Pháp và một số nước Châu
Âu để chống cộng.
Năm
1994, Nguyễn Thành Long, Lê Thái Hoà đã phối hợp với bọn phản động trong các tôn giáo khác thành lập “Hội đồng hợp tác tôn giáo
Việt Nam tại Hoa Kỳ” nhằm hỗ trợ cho cuộc đấu tranh của người Việt Nam các nơi
trong lĩnh vực tôn giáo.
Qua
thực tiễn đấu tranh cho thấy bọn phản động đã lợi dụng Phật giáo Hoà Hảo trong
nước và ngoài nước với các thế lực thù địch ở nước ngoài có quan hệ chặt chẽ
với nhau để chống phá cách mạng nước ta. So với giai đoạn 1975 – 1985 thì thời
gian gần đây sự cấu kết của bọn phản động Phật giáo Hoà Hảo ngày càng thể hiện
rõ nét, thường xuyên tăng cường bằng nhiều con đường, hình thức khác nhau thông
qua nhiều hoạt động với nhiều phương châm và thủ đoạn mới.
1.3.
Những hoạt động tôn giáo của Phật giáo Hoà Hảo có ảnh hưởng đến an ninh trật tự.
Từ
năm 1986, thực hiện đường lối đổi mới đất nước cùng với mở rộng dân chủ, trong
lĩnh vực tôn giáo Đảng và Nhà nước ta đã có những văn bản đáp ứng kịp thời yêu cầu của tình hình mới đang đặt ra đó là Phật giáo Hoà Hảo đã có sự biến động và
biến dạng nhanh chóng bằng phục hồi các sinh hoạt cũ, phát sinh những hình thức mới, nảy sinh
nhiều hình thức tôn giáo tự phát bằng những hành động nổi bật.
-
Phục hồi các sinh hoạt tôn giáo mang tính tập thể ở gia đình và nơi thờ tự
như trước năm 1975… Tự thành lập hàng
loạt các Ban, Hội niệm nằm rải rác ở các xã có đạo, lợi dụng các đám tang, cúng
tuần, giỗ ở nhà các tín đồ để cầu nguyện, tụng niệm có khi lên tới vài trăm
người thông qua đó để lôi kéo tập hợp quần chúng tuyên truyền giảng đạo và phát
triển đạo trái phép. Lợi dụng các chùa chiền, đình, dinh có tổ chức lễ giỗ hợp
pháp để lồng các sinh hoạt tôn giáo, biến những nơi đây thành cơ sở thờ phụng
tôn giáo của mình và lợi dụng hoạt động từ thiện để tuyên truyền, củng cố, phát
triển đạo và lôi kéo quần chúng như hàng năm vào dịp 18.05 âm lịch hoạt động
diễn ra nhộn nhịp ở nhiều tỉnh An Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp và Vĩnh Long.
-
Phương thức hoạt động của chúng là bí mật đi vận động tín đồ sau đó hợp đồng xe
khách, qui định địa điểm tập kết rồi đưa người đi hành hương. Theo số liệu của
công an ở các địa phương, trong năm năm (1990 - 1995) công an đã phát hiện 21
vụ vận động tổ chức tín đồ đi hành hương về đình với al hàng ngàn lượt người
tham gia, gây ra những vấn đề bức xúc về mặt an ninh trật tự của cả một số
vùng, nhiều địa phương phải phối hợp để giải quyết. Ngoài ra, chúng còn tuyên
truyền chùa Phước Điền, Thới Sơn (Tịnh Biên – An Giang) là nơi Huỳnh Phú sẽ
hoạt động lúc còn sống nhằm để rủ rê tín đồ “hành hương về cội nguồn”.
2. Hoạt động bảo đảm An ninh
trật tự ở Phật giáo Hoà Hảo.
2.1
Cơ sở quản lý Nhà nước đối với Phật giáo Hoà Hảo và những vấn đề đặt ra:
-
Nhà nước quản lý mọi mặt về đời sống xã hội, bằng pháp luật trong đó có “Quyền
tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo” ở Việt Nam ghi nhận ở điều 70 của luật hiến
pháp 1992; Nghị định 68/HĐBT ngày 21/3/1939 và chỉ thị số 379/TTg ngày
19/4/1999 của chính phủ. Đây là cơ sở pháp lý bảo đảm cho công tác quản lý về Tôn giáo ở Việt Nam.
-
Công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo Phật giáo Hoà Hảo còn nguồn từ 3 sự kiện
có liên quan đến quyết định của chính quyền địa phương, trở thành giá trị chung
trong công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo đến với Phật giáo Hoà Hảo ở mọi địa
bàn miền Tây Nam Bộ và thành phố Hồ Chí Minh đó là:
+
Vào những ngày đầu mới giải phóng
(1975), nhân việc tàn quân nguỵ, lính Bảo an dồn về thánh địa hô hào: “Tử thủ với cộng sản” cùng với việc bọn phản động
trong ban trị sự chôn dấu vũ khí tại trụ sở
thánh địa, chính quyền địa phương buộc Tổ Đình ra thông báo gải tán các
cấp hành chính của Ban trị sự, đóng cửa các Toà độc giảng, hội uán.
+
Sau khi giáo hội bị giải tán, những người trong tổ đình buộc họ hàng, bà con
với Huỳnh Phú Sổ tự nhận là trung tâm hành đạo. Nhưng sau vụ bê bối tài chính
1981, chính quyền tỉnh An Giang quyết định thu hẹp quyền lực của Tổ đình bằng
việc yêu cầu chuyển Tổ đình thành phủ thờ của gia tộc họ Huỳnh.
+
Tiếp đó, đến nagỳ “Khai đạo” năm Nhâm tuất (18/5/1982) chính quyền tỉnh An
Giang yêu cầu gia tộc họ Huỳnh ra thông báo cho tín đồ không được hành hương về
Toỏ đình nhân ngày “khai đạo” như truyền thống, mà tổ chức cúng lễ tại gia
đình.
Đến
đây, mọi sinh hoạt tôn giáo chỉ được duy trì tại gia với tư cách cá nhân. Những sinh hoạt tôn giáo mang tính tập thể dù ở gia đình hay nơi
thờ tự, kể cả việc hành hương cúng lễ ở Tổ đình đều trở thành bất hợp pháp.
-
Thực trạng hoạt động quản lý Nhà nước về tôn giáo ở địa bàn Phật giáo Hoà Hảo từ
năm 1975 đến nay có thể khái quát qua 2
giai đoạn sau:
+
Giai đoạn từ năm 1975 – 1985:
Công
tác quản lý Nhà nước về tôn giáo đối với Phật giáo Hoà Hảo luôn gắn liền
với các sự kiện nêu trên và dựa trên cơ
sở tinh thần chỉ thị 07/CT-TW tháng
07/1997 và Nghị quyết số 40/NQ-TW tháng 10/1981 của Ban bí thư Trung ương Đảng.
Thời kỳ này thì công tác quản lý của Nhà nước về căn bản đáp ứng những yêu cầu
đặt ra nhằm tước bỏ những yếu tố chính trị ra khỏi đạo, bảo đảm cho quần chúng
tín đồ “tu tại gia, cúng lễ tại nhà”. Với khí thế ngày càng cao của những tháng
ngày đất nước hoàn toàn thống nhất và trong điều kiện nền kinh tế tập trung,
bao cấp kéo dài, với tư tưởng nóng vội duy ý chí, có tác động ảnh hưởng nhiều
đến lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có cả lĩnh vực quản lý Nhà nước về
tôn giáo, nên nôn nóng muốn xoá bỏ ngay Phật giáo Hoà Hảo.
+
Giai đoạn từ năm 1986 đến nay:
Đối
với công tác đấu tranh chống bọn phản động lợi dụng Phật giáo Hoà Hảo, bài trừ
mê tín dị đoan và các hủ tục lạc hậu đi liền với hoạt động tồn giáo ở hầu hết
các địa phương có chung quan điểm, thống nhất vận dụng các chỉ thị, nghị quyết
của Đảng, văn bản của Nhà nước về tôn giáo làm phương tiện để tiến hành công
tác quản lý Nhà nước có hiệu quả nhằm bảo đảm giữ vững an ninh quốc gia và trật tự an ninh xã hội các
địa bàn này.
Vậy
công tác quản lý Nhà nước đối với Phật giáo Hoà Hảo từ năm 1986 đến nay còn có
những tồn tại, chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới đòi hỏi, đồng thời
cũng goị cho chúng ta phương hướng khắc phục nhằm đảm bảo công tác này đưa vào
nề nếp.
Trước tiên là công cụ và phương tiện quản lý chưa xác định rõ, đây là vấn đề
quan trọng nhất và là yêu cầu bức xúc trong tình hình hiện nay, Phật giáo Hoà
Hảo nếu là một tôn giáo phải được quản lý theo hệ thống văn bản chung về tôn
giáo và những văn bản riêng đặc thù đối với nó.
Công tác quản lý Nhà nước đối với Phật giáo Hoà Hảo trong thời gian qua đã bộc lộ những thiếu xót, nhược
điểm như sự thiếu thống nhất hoặc là chờ đợi ý kiến của cấp trên hoặc là mỗi
địa phương thực hiện theo chủ trương, cách thức riêng của mình, xử lý công việc
theo sự vụ, đối phó không dứt điểm, ngăn chặn được việc này, lúc này hoặc nơi
này thì lại nảy sinh việc khác, lúc khác hoặc nơi khác.
các sinh hoạt tôn giáo thì phát triển
theo tự phát nảy sinh rất nhiều vấn đề phứuc tạp về chính trị, kinh tế, văn hoá
và đặc biệt là an ninh trật tự. Suy cho cùng, chủ yếu bắt đầu từ tình trạng
chưa có công cụ, phương tiện Nhà nước chưa đủ và chưa mạnh (kiên quyết) để xử
lý các vấn đề phức tạp mà trong quá trình phát triển của tôn giáo nảy sinh.
Bên cạnh đó, trong thời gian qua chúng ta vẫn chưa có một đội ngũ cán bộ quản
lý Nhà nước chuyên trách có đầy đủ năng lực, kinh ghiệm đi sâu vào lĩnh vực
Phật giáo Hoà Hảo để kịp thời giải quyết và đề xuất những vấn đề nóng bỏng đặt
ra trong thực tế.
2.2.
Một số biện pháp được áp dụng trong phòng ngừa và đấu tranh Phật giáo Hoà Hảo.
-
Biện pháp vận động quần chúng bảo vệ an ninh trật tự ở các địa bàn Phật giáo
Hoà Hảo.
30
năm qu, công tác vận động quần chúng được tiến hành thường xuyên, phong trào an
ninh trật tự luôn được giữ vững, các thế
lực thù địch từ chỗ hoạt động manh động, trắng trợn đến chỗ co cụm, rút vào
hoạt động bí mật, nằm im chờ thời cơ. từ chỗ quần chúng tín đồ bị kìm kẹp, lừa
gạt, bị khống chế về mặt tinh thần và tư tưởng đến chỗ quần chúng được giải
phóng về mặt tinh thần, thoát khỏi sự ràng buộc của bọn phản động và làm chủ
cuộc đời mình. Từ đó, góp phần đấu tranh, phòng ngừa, ngăn chặn những âm mưu,
thủ đoạn, hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch…chống phá cách mạng ở địa
bàn Phật giáo Hoà Hảo. Công tác vận động quần chúng trong những năm qua đã đem
lại những kết quả và được ghi nhận ở 2 phương diẹen cơ bản sau:
+
Thứ nhất: nắm vững đường lối về công tác quần chúng của Đảng, đánh giá đúng bản
chất của quần chúng tín đồ, tin tưởng
vào quần chúng, vận động lôi kéo hướng dẫn họ góp phần xây dựng quê hương đất
nước, nâng cao đời sống vật chất tinh thần, hoà
hợp dân tộc, khơi dậy ở họ tình yêu đất nước, yêu chủ nghĩa xã hội, căm
ghét bọn phản động lợi dụng tôn giáo để phản nước hại dân. Đồng thời trong quá
trình thực hiện công tác vận động quần
chúng đã gắn liền với việc tháo gỡ những vướng mắc, những mặc cảm nặng nề còn
đông trong tư tưởng tình cảm của tín đồ với cách mạng. Bên cạnh đó luôn tôn
trọng sinh hoạt tín ngưỡng theo tôn chỉ hành đạo “Tu tại gia, cúng lễ tại nhà”.
Làm cho tín đồ luôn bền vững tin ở chế độ mới. Đảng cộng sản Việt Nam – Nhà
nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam “của dân, do dân, vì dân” hăng hái đóng
góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thật vậy, phong trào quần chúng
bảo vệ an ninh Tổ quốc luôn được đẩy mạnh và duy trì thường xuyên từ năm 1975
đến nay. Ví dụ như tại Cần Thơ, tính riêng năm 1986 quần chúng đã cung cấp cho
chúng ta nhiều tin tức quan trọng, phục vụ công tác truy quét có kết quả, bắt
225 tên, thu 54 súng, 12 lựu đạn, 1000 viên đạn, trong đó có 4 tên ra hàng, nộp
4 súng.
+
Thứ hai: Quá trình vận động quần chúng bảo vệ Phật giáo Hoà Hảo tại các địa bàn
Phật giáo Hoà Hảo gắn liền với việc củng cố hệ thống chính trị cấp cơ sở bằng nhiều hình thức và nhiều cánh
làm khác nhau.
Thật
vậy, trong thực tế những năm qua, chúng ta đã chọn lọc một số chức sắc cũ, tín đồ tiến bộ đưa họ vào
các tổ chức đoàn thể xã hội, xây dựng họ thành lực lượng cốt cán, góp phần củng
cố hệ thống chính trị ở cơ sở. Song song đó, thì theo chức năng của mỗi ngành,
mỗi cấp và các đoàn thể xã hội đều lồng những nội dung của phong trào bảo vệ an
ninh Tổ quốc vào các hoạt động của điạ phương; đồng thời với việc đẩy mạnh quá trình phát triển kinh
tế, văn hoá, xã hội cũng là quá trình giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ Phật
giáo Hoà Hảo ở các khóm ấp… có đồng bào theo đạo.
vậy
nhờ vào hoạt động nhiều chiều này, ơt nhiều địa phương quần chúng tín đồ không
những nâng cao ý thức cảnh giác, mà còn tích cực tham gia tuần tra canh gác,
đóng góp quỹ an ninh quốc phòng – bảo vệ trị an khóm, ấp, kịp thời cung cấp nhiều tin tức tài liệu về các hoạt động
phạm pháp cho các cơ quan chức năng xử lý chính xác, nhanh chóng và có hiệu
quả.
-
Từ năm 1986 đến nay, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta thực hiện công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước lấy kinh tế làm trọng điểm và động lực, nhưng đồng thời gắn
đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, tiến hành trên cơ sở vững chắc của thành
tựu trong đổi mới kinh tế và giữ vững ổn định chính trị. Công tác quản lý Nhà
nước trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, và xã hội đã đạt
được những thành tựu tolớn. Đội ngũ cán bộ với trình độ và kinh nghiệm quản lý
không ngừng được nâng cao. Đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện và an
ninh trật tự được giữ vững, ổn định. Quần chúng tín đồ ngày càng tin tưởng vào
đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; hoạt động của bọn phản
động lợi dụng Phật giáo Hoà Hảo không còn như trước mà đi vào thế thủ; lợi dụng
chính sách đổi mới về công tác tôn giáo và dâm chủ, nhân quyền đang ngấm ngầm
hoạt động bí mật hoặc nằm yên chờ đợi thời cơ. Đây là vấn đề mà chúng ta cần
phải cảnh giác và luôn ở thế chủ động sẵn sàng đấu tranh chống lại các hành vi
quấy rối an ninh trật tự của một bộ phận tín đồ phản động.
2.3.
Công tác đấu tranh và xử lý
-
Chủ trương, đối sách và kết quả đấu tranh trấn áp.
+
Trước hết phải khẳng định đây là cuộc đấu tranh diễn ra phức tạp, quyết liệt và
đầy gian khổ. Bằng việc vận dụng linh hoạt, sáng tạo các biện pháp các hình
thức đấu tranh; nhằm đập tan âm mưu của bọn phản động hòng giành lại vị trí đã
mất, mơ tưởng xây dựng “Vương quốc đạo trị” giữ vững an ninh trật tự, bảo đảm
các yêu cầu và nghiệp vụ cũng như đúng với pháp luật đã ban hành.
Đây
là một quá trình phản ánh rất rõ nét chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà
nước và kế hoạch - đối sách của ngành công an chống lại các thế lực thù địch
lợi dụng Phật giáo Hoà Hảo. Thể hiện nổi bật là việc vận dụng các chiến thuật
nghiệp vụ để đấu tranh ngăn chặn, kết hợp với các biện pháp tấn công chính trị,
xử lý hành chính và hình sự.
+
Trong điều kiện đất nước ổn định, công cuộc đổi mới đạt được nhiều thành tựu to
lớn trên tất cả các lĩnh vực đời sống kinh tế, xã hội… Dân chủ được mở rộng thì
các thế lực lợi dụng Phật giáo Hoà Hảo cấu kết chặt chẽ trong ngoài nước,
chuyển vào hoạt động phục hồi tổ chức bí mật về mặt công khai là đòi hợp pháp
hoá giá hội Phật giáo Hoà Hảo. Điều đó cho phép nhận định về âm mưu lâu dài và
ảo tưởng của chúng về một “Vương quốc Phật giáo Hoà Hảo” đồng thời phản ánh thủ
đoạn đấu tranh luôn gắn chặt với tôn giáo chính trị, lấy tôn giáo làm vỏ bọc,
bình phong rồi lại mưu đồ biến Phật giáo Hoà Hảo thành một lực lượng chính trị
từ cơ cấu tổ chức đến hoạt động.
Công
tác đấu tranh chống hoạt động lợi dụng Phật giáo Hoà Hảo tuyên truyền chống chế
độ xã hội chủ nghĩa cũng diễn ra thường xuyên liên tục trên các địa bàn, mặc dù
đã làn tan rã nhiều tổ chức giáohộ phục hồi một cách thường xuyên, kiên quyết
và có hiệu quả tại các địa phương. Trong những năm qua công tác đấu tranh
thường tập trung vào những hành vi tuyên truyền, xuyên tạc đường lối chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo; khoét sâu mâu thuẫn chủ nghĩa xã
hội với tôn giáo giưuã cách mạng với Phật giáo Hoà Hảo. Bằng việc lợi dụng
những sơ hở thiếu sót của ta và những vấn đề dols để lại, với luận điệu đòi
“dân chủ”, “nhân quyền” “Đa nguyên, đa Đảng” phối hợp chặt chẽ với chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực phản đọng ở nước ngoài tiến hành cuộc chiến tranh tâm lý ở
các địa phương có tín đồ Phật giáo Hoà Hảo… Ngoài ra, công tác đấu tranh còn
phát hiện loại bỏ những hoạt động sản xuất, tàng trữ, lưu hành, phổ biến tài
liệu văn hoá phẩm có nội dung tuyên truyền chống chế độ.
-
Xử lý các đối tượng vi phạm các quy định liên quan đến hoạt động tín ngưỡng,
sinh hoạt tôn giáo bằng biện pháp hành chính.
+
Đây là biện pháp được sử dụng phổ biến và thường xuyên, không những có ý nghĩa
và tác dụng tích cực trong đấu tranh ngăn ngừa vi phạm các quy định về hoạt
động tôn giáo, mà còn tác động đến phòng ngừa đấu tranh với các thế lực thù
địch lợi dụng Phật giáo Hoà Hảo để chống phá cách mạng – chống phá Nhà nước ta.
Trong
quá trình sử dụng biện pháp hành chính ở địa phương thường có các yêu cầu đặt
ra: Phải kiên quyết không để một vi phạm nào bị xử lý, vận dụng linh hoạt sáng
tạo các hình thức xử lý; quán triệt tinh thần chủ động phối hợp chặt chẽ với
ban tôn giáo, Mặt trận Tổ quốc các ngành có liên quan ở địa phương có sự cân
nhắc thận trọng đến thái độ tâm lý, quyền tự do tín ngưỡng của quần chúng. Với
các hình thức như: Buộc dỡ bỏ các am cốc, kiểm điểm công khai trước dân, thu
giữ các đồ vật và phương tiện sử dụng
cho hoạt động trái phép, cảnh cáo giáo dục, viết cam kết, quản chế, trục xuấ khỏi
địa phương,phạt vi cảnh… phạt tiền và tập trung cải tạo vào những năm 1990 trở
về trước. Ví dụ như qua số liệu thống kê ở các tỉnh thì An Giang là tỉnh trọng
điểm chiếm hơn 80% số vụ và đối tượng tham gia. Về thời gian thì giai đoạn 1975 – 1986 chiếm 95%
tổng số vụ của thời kỳ từ năm 1975 đến nay. Đó là lập ra nhiều tổ chức phản
động nhất, có số lượng người tham gia đông nhất, hoạt động vũ trang manh động
nhất và bị xử lý hình sự nhiều nhất.
Dưới
sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền các cấp, sự phối hợp chặt chẽ giữ các ban, ngành, các đoàn thể quần chúng từ năm
1975 đến nay an ninh trật tự tại các địa phương luôn được giữ vững. Chúng ta đã
đập tan mọi âm mưu chống phá của các thế lực và một số phần tử phản cách mạng,
loại bỏ các tổ chức đạo trá hình hoặc bí mật do bọn chúng lợi dụng Phật giáo
Hoà Hảo để nhằm chống phá cách mạng.
Song
khi nhìn lại cả quá trình đấu tranh phải thừa nhận rằngL trong một thời gian
dài (hơn 10 năm) chúng ta còn nặng về thiên hướng coi Phật giáo Hoà Hảo là một
tổ chức của địch và đã xem nhẹ, thậm chí bỏ qua Phật giáo Hoà Hảo là một tôn giáo. Cũng từ đó, trong thực tế
chúng ta chưa định hình kịp thời về mặt chính sách, pháp luật nhất làtừ năm
1986 trở về trước. Và điều này đã gây nên không ít kho khăn, cản trở trong công
tác đấu tranh, phòng ngừa chống các loại tôi phạm lợi dụng Phật giáo Hoà Hảo
trong thời gian qua.
Đồng
thời, trong những năm gần đây, nhờ có những quan tâm chỉ đạo và những chính
sách thích hợp trên lĩnh vực tín ngưỡng tôn giáo cũng như việc thực hiện có
hiệu quả những quan điểm chỉ đạo và chính sách đó, hầu hết các đồng bào có đạo
đã hồ hởi, phấn khởi tham gia một cách tự giác vào quá trình đổi mới. Những
thành tựu to lớn trên mọi mặt mà công cuộc đổi mới gần 20 năm qua đạt được có
sự đóng góp không nhỏ của đồng bào có đạo.
Do
vậy việc nắm vững những quan điểm chỉ đạo của Đảng, chính sách của Nhà nước
trên lĩnh vực tôn giáo và nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước trênlĩnh vực
này nhằm phát huy mạnh mẽ hơn nữa sự tham gia tích cực và tự giác của toàn dân
trong đó có đồng bào theo đạo vào quá trình đổi mới là vấn đề có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn cấp bách của nước ta hiện nay.
3. Một số kiến nghị và đề
xuất
3.1.
Những vấn đề đặt ra hiện nay
Hiện
nay, theo Ban tôn giáo Chính phủ, Phật giáo Hoà Hảo có 1.232.572 tín đồ có mặt
chủ yếu ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, trong đó tập trung đông nhất ở các tỉnh: An Giang, Đồng Tháp,
Vĩnh Long, Cần Thơ.
Gần
đây do chính sách tôn giáo đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, về mặt tổ chức
Phật giáo Hoà Hảo đã tổ chức đại hội lần thứ II nhiệm kỳ (2004-2009) bầu ra một
ban đại diện với 21 thành viên. Với sự kiện đó, mặc dù còn có một số ít
người của Phật giáo Hoà Hảo ở trong và
ngoài nước hoài nghi thậm chí chống đối lại, còn hầu hết quần chúng tín đồ của
đạo yên tâm hơn trong sinh hoạt và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý
của Nhà nước. Với tinh thần “hướng về tương lai, khép lại quá khứ” để xoá bỏ
trị kiềm, cùng nhau đoàn kết xây dựng cuộc sống mới, tín đồ Phật giáo Hoà Hảo
cùng với đồng bào không có tôn giáo và cùng với tín đồ tôn giáo khác, tham gia
tích cực vào các phong trào sản xuất, kinh tế, xã hội xây dựng quê hương đất
nước ngày càng giàu mạnh. Đồng thời với tinh thần ấy, cần quan tâm việc phổ
biến chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng – Nhà nước ta cho tín đồ Phật
giáo Hoà Hảo cũng như thực hiện chính sách văn hoá đối với tôn giáo trong khu
vực dân cư để phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp, lành mạnh cũng
như khắc phục những hạn chế trong hoạt động
của Phật giáo Hoà Hảo.
Bên
canh đó, chúng ta hết sức chú ý và cảnh giác với chủ nghĩa đế quốc và bọn phản
động quốc tế, chúng đang và sẽ tiến hành chiến lược “Diễn biến hoà bình” đối
với các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, trong đó Việt Nam là một trong đó. Bọn
chúng lợi dụng tôn giáo nói chung và Phật giáo Hoà Hảo nói riêng là một bộ phận
tất yếu trong chiến lược này. Đặc biệt là trong thời gian tới sẽ được tăng
cường với nhiều hình thức và thủ đoạn mới, ngày một tinh vi hơn.
Từ
những vấn đề đặt ra ở trên, xin nêu ra một số kiến nghị và đề xuất sau:
3.2.
Kiến nghị và đề xuất.
3.2.1. Về vấn đề nhận thức
bản chất của Phật giáo Hoà Hảo.
-
Các cơ quan của Đảng và Nhà nước trong
quá trình thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình có liên quan đến các hoạt
động tôn giáo của Phật giáo Hoà Hảo cần phải nhìn nhận rằng Phật giáo Hoà Hảo
là một tôn giáo và đối xử với Phật giáo Hoà Hảo như những tôn giáo khác.
-
Về nhu cầu tín ngưỡng của Phật giáo Hoà Hảo:
Để
***** chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng và
Nhà nước đi vào cuộc sống, các cơ quan chức năng phải thật sự tôn trọng nhu cầu
tôn giáo của tín đồ. Nghĩa là phải biết phát hiện nhu cầu, nhìn nhận là chính
đáng cho phép họ được tự do hoạt động và tạo điều kiện thuận lợi để họ thực
hiện nhu cầu đó.
Và
đến lúc chúng ta cần nhận thức rằng tôn giáo cũng là một hiện tượng văn hoá
trong đời sống xã hội của con người. Do vậy, thái độ đối với tôn giáo nói chung
đối với Phật giáo Hoà Hảo nói riêng cũng phải dựa trên nền tảng truyền thống
văn hoá dân tộc, đường lốivh của Đảng và Nhà nước ta.
-
Cách nhìn nhận đánh giá về các hoạt động phi tôn giáo của giáo hội Phật giáo
Hoà Hảo.
+
Lịch sử phát triển của tôn giáo này cho thấy ở từng thời điểm khác nhau cũng
bộc lộ những yếu điểm của nó, đó là sự tham gia vào các hoạt động phi tôn giáo.
+
Hoạt động chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá - xã hội của giáo hội Phật giáo
Hoà Hảo thời kì 1939 – 1975 dù hợp pháp hay không đều là những hoạt động không nhằm mục đích tôn giáo và suy
cho cùng là vì mục đích chính trị, xây dựng “Vương quốc Phật giáo Hoà Hảo”.
+
Ngay cả trong “Sấm giảng thi văn toàn bộ
của Đức Huỳnh giáo chủ” thì hoạt động chính trị là một phần trong các hoạt động
của Phật giáo Hoà Hảo. “Giáo lý giải thoát chúng sinh chẳng những được truyền
bá ở thiền lâm mà còn phải thực hiện trên đường chính trị”.
Vậy
– vấn đề đặt ra cho các cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo trong
việc cho phép in ấn và xuất bản các sách
giáo lý.
- Với tư cách là cá nhân – công dân họ
có thể hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội… trong khuôn khổ luật pháp nhưng
không được nhân danh Phật giáo Hoà Hảo, có chăng là chỉ vì mục tiêu tôn giáo mà
thôi.
- Hoạt động xâm phạm an ninh trật tự của
những tín đồ Phật giáo Hoà Hảo từ năm 1975 đến nay là những hoạt động trái với
pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, xử lý cần phân biệt rõ
ràng động cơ mục đích để thoả mãn nhu cầu tôn giáo hoặc lợi dụng hoạt động tôn
giáo để chống phá cách mạng, hoặc để mưu cầu lợi ích cá nhân.
3.2.2.
Về công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động của Phật giáo Hoà Hảo.
-
Quản lý về tổ chức của Phật giáo Hoà Hảo: Đó là cơ cấu tổ chức Phật giáo Hoà
Hảo và tư cách pháp nhân của tổ chức đó.
Theo Nghị định số 91/NĐ-CP ngày 13/8/2003 của chính phủ qui định về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Tôn giáo chính phủ, Nghị định số
26/1999/NĐ-CP ngày 19/4/1999 của chính phủ về các hoạt động tôn giáo… Vấn đề
đặt ra ở đây là phải củng cố, xây dựng Ban trị Trung ương Phật giáo Hoà Hảo để
họ điều hành sinh hoạt đạo theo hướng tích cực: đoàn kết, tuân thủ pháp luật,
đóng góp nhiều nhất cho sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương.
-
Một số nhu cầu trong sinh hoạt tôn giáo của tín đồ Phật giáo Hoà Hảo cần được
nghiên cứu và giải quyết.
+
Tổ chức nghiên cứu xây dựng để sớm ban hành luật (hoặc pháp lệnh) về hoạt động
tôn giáo.
+
Về ngày lễ đề nghị Nhà nước có văn bản tuyên bố lấy ngày 18/05 âm lịch làngày “đại lễ” duy nhất trong năm của Phật
giáo Hoà Hảo.
+
Việc in, phát hành cuốn sách giáo lý “Sầm giảng thi văn toàn bộ” phái cấp
giấy phép, khi nội dung được chính phủ và các ban ngành có liên quan xét
duyệt lại nhằm loại bỏ những nội dung
chính trị phản động. Cho phép in ảnh chân dung Huỳnh Phú Sổ và tấm Trần giá để
thoả mãn nhu cầu thờ phụng của tín đồ.
+
Đối với việc phân tán tài liệu, băng ghi âm bình giảng giáo lý, đây là hoạt
động vừa trái với pháp luật Nhà nước vừa không đúng với tinh thần cần thiết
ngăn cấm và loại bỏ.
+
Các hoạt động từ thiện của tín đồ Phật giáo Hoà Hảo, về mặt xã hội là đáng được
hoan ngênh khích lệ. Tuy nhiên trong thực tế sự “Nhường cơm xẻ áo” đã bị lợi
dụng, vì vậy hoạt động này cần được khuyến khích nhưng cũng phải được tổ chức
và quản lý chặt chẽ.
+
Đối với nơi thờ tự:
Tại gia đình, các tín đồ được xây dựng tu sửa, bài trí nơi thờ tự đúng theo
giáo lý Phật giáo Hoà Hảo.
Còn nơi thờ tự công cộng có 2 cơ sở đó là An Hoà tự và Tây An Tự (Chợ Mới – An
Giang) là nơi lưu giữ đầy đủ các biểu
trưng thờ cúng và có người quản lý. Theo thời gia, có chỗ đã bị xuống cấp về cơ
sở vật chất trong khi đó nhu cầu viếng thăm của
tín đồ vẫn còn. Do vậy, thiết nghĩ chính quyền địa phương cấp tỉnh có thể công nhận là một di tích văn hoá trong
hệ thống di tích văn hoá cổ truyền của địa phương. Và bên cạnh sự quản lý trông
coi của đại diện tín đồ Phật giáo Hoà Hảo thì sự quản lý của chính quyền địa
phương là rất cần thiết. Đồng thời, Nhà nước nên cho phép định kỳ tu bổ trên cơ
sở hiện trạng cũ. Nếu có thể nên hỗ trợ một phần kinh phí, phần còn lại là huy
động công đức của tín đồ, nhưng không giải quyết cho việc “xin xây chùa mới”.
Ngoài
ra không đặt vấn đề trả lại các cơ sở cũ của Phật giáo Hoà Hảo như toà độc
giảng (có 468 toà) trụ sở các Ban trị sự cũ và viện đại học Hoà hảo.
+
Vấn đề tổ đình: Đây chỉ thuần tuý là phủ thờ gia tộc ông Huỳnh Công Bộ. Vấn đề
này đã được chính quyền tỉnh An Giang ra quyết định yêu cầu gia tộc này thực
hiện theo đúng tinh thần chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
3.2.3. Về công tác phòng ngừ
và đấu tranh chống phản động lợi dụng Phật giáo Hoà Hảo.
Phòng
ngừa và đấu tranh chống phản động lợi dụng Phật giáo Hoà Hảo là một trong những
hoạt động cụ thể của công an nhân dân, nhằm thực hiện chức năng quản lý Nhà
nước về Phật giáo Hoà Hảo trên lĩnh vực và địa bàn Phật giáo Hoà Hảo.
-
Công tác phòng ngừa được xác định tập trung giải quyết một số yêu cầu sau:
+
Một là: Đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội nâng cao đời sống vật chất
tinh thần của quần chúng tín đồ vì sự ổn định và phát triển mọi mặt của đời
sống xã hội là nền tảng vững chắc của An ninh quốc gia.
+
Hai là: Tăng cường củng cố hệ thống chính trị cơ sở, chú trọng phát triển đội
ngũ cán bộ là tín đồ Phật giáo Hoà Hảo, xây dựng lực lượng chuyên sâu về Phật
giáo Hoà Hảo (Hiện đảng viên là tín đồ Phật giáo Hoà Hảo hơn 1.117 người, chiếm
hơn 0,08% tổng số tín đồ. Riêng ở An Giang là 902).
+
Ba là: Khắc phục những cơ sở thiếu sót, đặc biệt là trong việc thực hiện chính
sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ở địa bàn có Phật giáo Hoà Hảo.
+
Bốn là: Quan tâm giải quyết thoả đáng những nhu cầu hợp lý, chính đáng về tín
ngưỡng tôn giáo của quần chúng tín đồ, lôi cuốn họ vào các hoạt động xã hội và
làm cho họ ngày càng gắn bó hơn với sự nghiệp cách mạng.
+
Năm là: Đẩy mạnh công tác quần chúng bảo
vệ Phật giáo Hoà Hảo tại các địa bàn
Phật giáo Hoà Hảo.
+
Sáu là: Tranh thủ lôi kéo, phân hoá số chức sắc cũ và những người có uy tín
trong Phật giáo Hoà Hảo.
-
Về công tác đấu tranh.
+
Đối với hoạt động nhen nhóm tổ chức phản cách mạng cần sử dụng tổng hợp các
biện pháp, chiến thuật nghiệp vụ để chủ động ngăn chặn đấu tranh thực hiện “Bóp chết từ trong trứng”
Chú ý cảnh giác cao những hoạt động liều
lĩnh, manh động, phá hoại, gây bạo loạn, tạo điểm nóng.
+
Sử dụng linh hoạt các hình thức tấn công chính trị và xử lý hành chính kết hợp
chặt chẽ với hình thức xử lý hình sự với mục tiêu giữ yên lòng dân, giữ nghiêm phéo nước, giữ vững
ổn định chính trị xã hội.
+
Công an địa phương phải cd phương an và đối sách đấu tranh cụ thể nhằm đảm bảo
an ninh trật tự ở địa bàn Phật giáo Hoà
Hảo.
3.3.
Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước trong giai
đoạn hiện nay.
3.3.1. Phương hướng
*
Thường xuyên tổng kết việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công
tác tôn giáo trong đó có cả Phật giáo Hoà Hảo. Tăng cường nghiên cứu cơ bản,
tổng kết thực tiễn góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng và thực
hiện các chủ trương, chính sách trước mắt và lâu dài đối với Phật giáo Hoà Hảo.
Đặc biệt là phải nắm vững quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo.
*
Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu quả quản lý của Nhà nước trên lĩnh
vực tôn giáo. Đồng thời tăng cường vai trò của Mặt trận các cấp trong công tác
vận động tín đồ và các chức săcơ sở tôn
giáo.
*
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo, đặcbiệt là tôn giáo
Phật giáo Hoà Hảo. Song vấn đề kiện toàn bộ máy làm công tác tôn giáo các cấp
là vấn đề hết sức cần thiết.
3.3.2. Các giải pháp cụthể
Từ
những phương hướng cơ bản trên thì vấn đề Phật giáo Hoà Hảo ở các tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long cần có các giải pháp chủ yếu sau.
-
Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của hệ thống
chính trị và tàon xã hội về vấn đề tôn giáo mà cụthể là Phật giáo Hoà Hảo.
+
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các quan điểm,chủ trương chính sách về
tôn giáo của Đảng và Nhà nước trong toàn thể cán bộ, đảng viên, nhân dân, nhất
là các chức sắc, chức việc các tín đồ tôn giáo.
+
Giáo dục truyền thống yêu nước bảo vệ độc lập vàbảo vệ Tổ quốc làm cho Phật
giáo Hoà Hảo – tôn giáo gắn chặt với dân tộc, với đất nước với chủ nghĩa xã
hội, hăng hái thi đua xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
+
Giữ gìn và phát huy truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh và nhớ ơn những
người có công với Tổ quốc, dân tộc và nhân dân. Tôn trọng tín ngưỡng truyền
thống tạo ra sự đồng thuận tạo cơ sở để đấu tranh chống tà đạo, hoạt động mê
tín dị đoan, lợi dụng tôn giáo để làm hại đến lợi ích của Tổ quốc, dân tộc và
nhân dân.
-
Tăng cường công tác vận động quần chúng
xây dựng lực lượng chính trị ở cơ sở.
-
Tăng cường công tác tổ chức cán bộ làm công tác tôn giáo.
Vậy
việc thực hiện nghiêm túc những quan điểm chỉ đạo chủ trương giải pháp sẽ góp
phần giải quyết có hiệu quả vấn đề tôn giáo ở nước ta hiện nay. Mà Phật giáo
Hoà Hảo không nằm ngoài dòng chảy của đất nước. Vì mục tiêu: “Xã hội công bằng
dân chủ, văn minh” xây dựng Nhà nước thực sự: Của dân, do dân và vì dân.
Phần
kết luận
Nghiên
cứu về Phật giáo Hoà Hảo là một vấn đề rộng lớn và phức tạp, đồng thời gây ra
nhiều tranh cãi. Những vấn đề này không những chịu sự chi phối bởi một số thực
trạng nêu trên mà còn là vấn đề lâu nay chưa được tập trung nghiên cứu một cách
cơ bản và có hệ thống. Đề tài: “Một số vấn đề về Phật giáo Hoà Hảo vạ ảnh
hưởng của Phật giáo Hoà Hảo đến hoạt
động an ninh trật tự ở miền Tây Nam Bộ trong giai đoạn từ năm 1975 đến nay”
phần nào rõ hơn lý luận chung về tôn giáo, bản chất, nguồn gốc phát sinh, phát
triển, lịch sử tồn tại và thực trạng hiện nay của Phật giáo Hoà Hảo góp phần
nhận thức đầy đủ, toàn diện về Phật giáo
Hoà Hảo nhìn ở góc độ an ninh trật tự của các phần tử lợi dụng Phật giáo Hoà
Hảo và công tác đấu tranh của ta từ năm 1975 đến nay. Đồng thời nêu ra một số quan điểm cơ bản khi nhìn nhận,
đánh giá nhận thức về v và chỉ đạo công cuộc đấu tranh chống các thế lực
lợidụng Phật giáo Hoà Hảo bảo vệ an ninh quốc gia, đặc biệt là âm mưu “Diễn
biến hoà bình” của các thế lực thù địch.
Song
thưchủ nghĩa tiễn gần 20 năm đổi mới vừa qua đã mang lại cho Đảng ta nhiều nhận
thức sâu sắc một trong những số đó là: đổi mới là sự nghiệp của dân, do dâm và
vì dân. Để công cuộc đổi mới thành công phải động viên được mọi tầng lớp nhân
dân tham gia. Tính từ tháng 5/1999 đến tháng 6/2004 tín đồ Phật giáo Hoà Hảo đã
tự nguyện tham gia có hiệu quả cao trong công cuộc tái hoạt động từ thiện xã
hội với những con số đáng trân trọng như: Xây mới và sửa chữa được 403 cây cầu
nông thôn với kinh phí hơn 2,2 tỷ đồng; sửa chữa và nân cấp 250 km đường bộ với
kinh phí hơn 1,1, tỷ đồng, làm mới và sửa chữa được 3.114 căn nhà tình thương
tổng giá trị gần 4 tỷ đồng, quyên góp 315 tấn gạo và 3,7 tỷ đồng tổ chức cứu
trợ cho các vùng bị lũ lụt… Cùng với các hoạt động từ thiện xã hội thời gian
qua tín đồ Phật giáo Hoà Hảo đã nêu cao trách nhiệm công dân và hoạt động theo
pháp luật, kịp thời đấu tranh với những hoạt động gây chia rẽ đoàn kết dân tộc,
đoàn kết tôn giáo, góp phần giữ vững ổn định chính trị, xây dựng cuộc sống mới.
“Tốt đời đẹp đạo” Thắp sáng lên “ngọn đuốc từ bi chí thiện” thực hiện theo lời
dạy của Đức Huỳnh giáo chủ là:
Thương yêu nhau như con một cha.
Dìu dắt nhau vào con đường đạo đức
Thật
vậy, công cuộc đổi mới đất nước chúng ta tiếp tục giành được những thành quả to
lớn, tạo nên thế là lực mới trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để hoà
cùng sự nghiệp của toàn dân thiết nghĩ Ban trị sự Trung ương Phật giáo Hoà Hảo
cần tăng cường củng cốm kiện toàn tổ chức các Ban trị sự cơ sở, đại diện các
tỉnh, thành phố triển khai thực hiện chương trình đạo sự đạt kết quả tốt, đem lại lợi ích cho
Tổ quốc và đồng bào đặc biệt là thực hiện
lời dạy của Đức Huynh giáo chủ là “Học phật tu nhân” động viên tín đồ
phát huy truyền thống tốt đẹp của đạo trong công tác từ thiện – xã hội. Bên
cạnh đó phải hết sức cảnh giác ngăn chặn kịp thời các biểu hiện tiêu cực của
các phần tử cực đoan, lợi dụng Phật giáo Hoà Hảo hoạt động vi phạm pháp luật.
Hôm
nay chúng ta hoàn toàn có cơ sở tin tưởng vào các hoạt động “phụng đạo yêu ns” của Phật giáo Hoà Hảo sẽ
đạt thành tựu to lớn hơn để cùng toàn dân phấn đấu vì mục tiêu: “Dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn
minh”.
Sau
cùng là em muốn trình bày một cách toàn diện và nghiên cứu sâu về Phật giáo Hoà
Hảo nhưng kiến thức và khả năng còn hạn chế. Do vậy, e, rất mong được quí thầy
cô và các bạn đóng góp và bổ sung để đề tài
được hoàn thiện hơn.
Xin
chân thành cảm ơn!
(có những người vô danh làm nên lịch sử)
Có thể bạn muốn biết?
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét