Nhân nghĩa - tư tưởng chính trị chủ đạo của Nguyễn Trãi
Chủ Nhật, 13 tháng 11, 2016
Nhân nghĩa - tư tưởng chính trị chủ đạo của Nguyễn Trãi
Mục lục
Mở đầu
- Lý do chọn đề tài
- Tình hình nghiên cứu đề tài
- Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Phương pháp nghiên cứu của đề tài
- Kết cấu của đề tài
Nội dung
I .Cuộc đời, sự nghiệp và những nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành tư tưởng của Nguyễn Trãi
- Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi
- Tác Phẩm của Nguyễn Trãi
- Những nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành tư tưởng của Nguyễn Trãi
- Nhân nghĩa: Tư tưởng chủ đạo trong hệ tư tưởng chính trị của Nguyễn Trãi
- Nhân nghĩa là yêu dân, lấy dân làm gốc
- Ý chí quyết tâm tiêu diệt giặc
- Lòng nhân đạo và tình yêu hoà bình
- Quan điểm về đường lối trị nước
III. Những giá trị, hạn chế và sự vận dụng tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi trong giai đoạn hiện nay
- Những giá trị tích cực
- Những hạn chế
- Vận dụng tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử tư tưởng chính trị là môn học thuộc chuyên ngành chính trị học nhằm cung cấp những tri thức cơ bản về quá trình hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của những quan điểm, tư tưởng và học thuyết chính trị diễn ra trong lịch sử.
Là một bộ phận của hình thái ý thức thuộc thượng tầng kiến trúc xã hội, các học thuyết chính trị phản ánh các mối quan hệ chính trị - xã hội đặc biệt giữa các giai cấp dân tộc và các quốc gia dân tộc xoay quanh vấn đề giành giữ, tổ chức và thực thi quyền lực chính trị diễn ra trong lịch sử cũng như thái độ của giai cấp, dân tộc đối với quyền lực chính trị mà tập trung ở quyền lực nhà nước qua các thời đại lịch sử. Qua đó, lịch sử tư tưởng chính trị góp phần làm sáng tỏ nội dung ý nghĩa của thực tiễn đấu tranh chính trị, đúc rút những bài học kinh nghiệm phong phú đồng thời trang bị cho người học hệ thống tri thức, khả năng nhìn nhận và đánh giá đúng đắn những hiện tượng, quá trình chính trị ở hiện tại và tương lai.
Trong kho tàng phong phú và đa dạng của tư tưởng thế giới có sự hiện diện của tư tưởng chính trị Việt Nam với tư cách là một bộ phận cấu thành khăng khít. Được hình thành và phát triển qua chiều dài hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, tư tưởng chính trị Việt Nam hàm chứa những nội dung, sắc thái độc đáo và chiếm vị trí quan trọng trong dòng chảy tiến hoá chung của nhân loại. Do đó, nghiên cứu những tư tưởng chính trị Việt Nam được hình thành và phát triển trong lịch sử nhằm làm rõ nguồn gốc, nguyên nhân, nội dung; đánh giá những giá trị tích cực và hạn chế của các tư tưởng để vận dụng và phát huy những giá trị đó trong công cuộc xây dựng đất nước hôm nay là việc làm có ý nghĩa rất quan trọng. Ngoài ra, việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng chính trị còn là yêu cầu khách quan để nắm bắt tri thức chuyên ngành đối với sinh viên Khoa Chính trị học.
Qua thời gian học tập và nghiên cứu ban đầu về lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam, em thấy tư tưởng chính trị của Nguyễn Trãi có vị trí nổi bật và có giá trị to lớn trên nhiều lĩnh vực, bản thân em rất tâm đắc. Tư tưởng chính trị của ông tuy đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học. Song, do tầm vóc và chiều sâu của một tư tưởng lớn, nên cho đến nay tư tưởng Nguyễn Trãi vẫn còn là một mảnh đất cần được tiếp tục khai phá, đặc biệt là những vấn đề thuộc nội dung tư tưởng chính trị. Xuất phát từ những suy nghĩ trên em chọn: Nhân nghĩa- tư tưởng chính trị chủ đạo của Nguyễn Trãi" làm đề tài tiểu luận này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước đến nay, tư tưởng Nguyễn Trãi luôn là một đề tài lớn thu hút sự quan tâm chú ý của nhiều nhà nghiên cứu. Trên cơ sở đó, đã xuất hiện nhiều công trình, bài viết, bình luận, đánh giá về tư tưởng của ông. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau đây:
- Lịch sử tư tưởng chính trị (Khoa chính trị học, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền xuất bản 2004) - Đây là giáo trình môn học trình bày một cách hệ thống các học thuyết tưởng chính trị tiêu biểu trên thế giới và Việt Nam trong đó có đề cập đến tư tưởng chính trị của Nguyễn Trãi ở những nét cơ bản nhất.
- Nguyễn Lương Bình: Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước, Nxb Quân đội. Tác phẩm đã tập hợp những tư liệu lịch sử về cuộc đời hoạt động chính trị của Nguyễn Trãi từ khi tham gia khởi nghĩa Lam Sơn đến việc xây dựng triều đại mới; đồng thời tác giả cũng đãảtình bày luận giải, làm rõ tính đúng đắn trong tư tưởng kinh tế và chính trị của Nguyễn Trãi.
- Trần Thanh Mại: Vài nét về tư tưởng Nguyễn Trãi qua thơ văn ấy, Nxb Giáo dục, H, 1980. Tác phẩm trình bày khái quát những nét tư tưởng cơ bản của Nguyễn Trãi; qua đó góp phần làm rõ vị trí, vai trò của ông trong tiến trình khởi nghĩa Lam Sơn cũng như trong công cuộc xây dựng triều đại mới sau chiến tranh.
- Trần Huy Liệu: Nguyễn Trãi- một nhân vật lịch sử vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. Trong tác phẩm này chủ yếu tập trung đánh giá vị trí, vai trò của Nguyễn Trãi cùng với tư tưởng của ông trong giai đoạn đầu nhà Lê và những ảnh hưởng của tư tưởng đó với các thời kỳ lịch sử về sau.
- Đinh Gia Khánh: Nguyễn Trãi với tấm lòng ngày đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông. Bài viết phản ánh những trăn trở, tâm tư của Nguyễn Trãi đêm ngày những mong đem tâm sức mình xây dựng đất nước thái bình thịnh trị dân chủ.
Ngoài ra, còn có một số bài viết khác cũng đề cập đến cuộc đời, sự nghiệp và tư tưởng của Nguyễn Trãi.
Nhìn chung, các công trình trên đã đề cập đến tư tưởng Nguyễn Trãi trên nhiều phương diện, nhưng vẫn chưa có công trình nào trình bày một cách có hệ thống và toàn diện về tư tưởng chính trị của ông, trên cơ sở đó có thể nêu bật nội dung cốt lõi của tư tưởng ấy. Vì vậy, đề tài: Nhân nghĩa- tư tưởng chính trị chủ đạo của Nguyễn Trãi" sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn nữa nội dung tư tưởng chính trị của danh nhân văn hoá Nguyễn Trãi.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu: đề tài trung trình bày và luận giải để làm rõ nội dung tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, vạch ra những giá trị tích cực trong tư tưởng của ông và liên hệ vận dụng trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời, cũng trên cơ sở nêu bật tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi- nội dung chủ đạo trong hệ thống tư tưởng của ông sẽ góp phần vào việc tìm hiểu và nhận thức đầy đủ hơn về vai trò và vị trí Nguyễn Trãi trong thế kỷ XV và trong lịch sử dân tộc.
Nhiệm vụ: để thực hiện mục tiêu trên, đề tài tập trung làm sáng tỏ những vấn đề sau đây:
- Những đặc điểm chủ yếu về kinh tế, chính trị và xã hội Việt nam cuối thế kỷ XIV sang thế kỷ XV
- Cuộc đời, sự nghiệp, tác phẩm và hệ thống tư tưởng của Nguyễn Trãi
- Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi – những nội dung cơ bản
- Những giá trị và hạn chế trong nội dung tư tưởng của Nguyễn Trãi và sự vận dụng kế thừa trong giai đoạn hiện nay
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Tài năng, trí tuệ và cuộc đời hoạt động phong phú hết lòng vì đất nước vì nhân dân đã đưa Nguyễn Trãi vào vị trí nhà tư tưởng lớn nhất trong thế kỷ XV đồng thời cũng là một trong những nhà tư tưởng lớn trong lịch sử dân tộc. Vì vậy, phạm vi tư tưởng của ông rất rộng, phong phú và có giá trị trên nhiều lĩnh vực: quân sự, ngoại giao, văn hoá, chính trị...Do điều kiện và năng lực bản thân có hạn nên đề tài không nghiên cứu toàn bộ tư tưởng của Nguyễn Trãi mà chỉ tập trung làm sáng tỏ tư tưởng nhân nghĩa- nét đặc sắc nhất trong tư tưởng chính trị của ông.
5.Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: đề tài sử dụng phương pháp luận mácxít là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Các phương pháp chung: Logíc- lịch sử, phân tích hệ thống.
- Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp cụ thể như: phân tích, tổng hợp, đánh giá, so sánh...
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo đề tài gồm 2 mục lớn và 5 tiết cụ thể.
B- nội dung
I. Cuộc đời, Sự nghiệp và những nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành tư tưởng của Nguyễn trãi
1. Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi (1830-1442)
Nguyễn Trãi (hiệu là ức Trai) sinh năm 1380 tại kinh thành Thăng Long là con của bà Trần Thị Thái (con gái quan tư đồ Trần Nguyên Đán) và ông Nguyễn ứng Long làm nghề dạy học quê gốc ở ThườngTín (Hà Tây).
Nguyễn Trãi vừa mới lên 5 tuổi mẹ qua đời và được ông ngoại đón về dinh nuôi. Thương người cháu sớm phải mồ côi mẹ, quan tư đồ Trần Nguyên Đán giành cho Nguyễn Trãi tình thương yêu đặc biệt và ra sức dạy cho ông những hiểu biết về truyền thống dân tộc, đạo lý làm người cùng những kiến thức Nho học đương thời. Nhưng sự bù đắp đó cũng chẳng được bao nhiêu vì khi Nguyễn Trãi lên 10 tuổi thì cũng là lúc ông phải chứng kiến cái chết của người ông ngoại mà ông vô cùng kính trọng, biết ơn. Từ đó, cha con Nguyễn Trãi trở về với cuộc sống bình dân và trải qua những ngày khó khăn thiếu thốn ở làng Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây). Trong thời gian này, Nguyễn Trãi đã cùng ba em giúp cha lao động đảm bảo cuộc sống gia đình.
Song, cuộc sống vất vả đã không cản được Nguyễn Trãi phấn đấu trên con đường học tập. Từ thực tế lăn lộn cuộc sống và nỗ dùi mài sách vở đã giúp ông tích luỹ được khối lượng kiến thức phong phú và sâu sắc về xã hội, đất nước, con người Đại Việt. Đó chính là là cơ sở để ông rút ra đường lối và sách lược trong sự nghiệp giải phóng nhân dân, đất nước.
Sau khi lên ngôi, năm 1400 Hồ Quí Ly mở khoa thi Thái học sinh. Nguyễn Trãi đã thi đỗ khoa này và cùng với cha làm quan ở Ngự sử đài hằng mong chí lớn của mình ra giúp nước. Trong quá trình làm quan dưới triều Hồ, một mặt ông rất tán thành những chính sách tiến bộ (như chính sách hạn Điền, hạn Nô lấy đất chia cho dân cày, giải phóng nô lệ về làm nông nghiệp….); một mặt ông cũng nhận thấy ở triều đại này cũng đang tồn tại những hạn chế của nó trên một số lĩnh vực cụ thể (như phòng thủ quân sự, chăm lo sức dân…) nên đã gắng hết sức chăm lo củng cố chính quyền mới nhưng chưa được là bao.
Cuối thế kỉ XIV đầu thế kỉ XV, thế lực phong kiến phương Bắc nổi lên, âm mưu thôn tính các nước lân cận và Đại Việt trở thành một trong những mục tiêu thôn tính của chúng. Năm 1406 hơn tám mươi vạn quân Minh tràn vào bờ cõi nước ta, nhà Hồ kháng chiến đến cùng nhưng thất bại. Cuối năm 1406 Hồ Quý Ly cùng triều thần bị giặc bắt sống giải về Trung Quốc. Trong số quan lại triều Hồ đó có Nguyễn Phi Khanh- cha của Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi theo cha đến ải Nam Quan thì được cha căn dặn: "quay tìm đường cứu nước cứu dân mới là đại hiếu". Thấm lời dạy đó, ông từ bỏ ý định đi theo phục dịch cha mà quay trở về để tìm đường cứu nước. Không may, khi về đến thành Đông Quan (Hà Nội), Nguyễn Trãi bị giặc bắt, bị giam lỏng trong thành nhưng rồi trốn thoát được. Từ đó, ông lang thang phiêu bạt khắp nơi trên đất Việt, chứng kiến những cuộc khởi nghĩa anh dũng của nhân dân chống lại ách thống trị của giặc Minh nhưng không thành, đồng thời chứng kiến sự độc ác ghê gớm của giặc Minh.
"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ"
Sau đó, ông còn chứng kiến thất bại của cuộc kháng chiến của triều thần nhà Trần là Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng do không vì lợi ích của dân tộc của nhân dân mà nặng vì lợi ích dòng họ, cá nhân, ích kỉ cho riêng mình.
Sau 10 năm liên tục 1417 ông tìm đến Lê Lợi, thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ông nhận thấy là minh chúa, một người có tài có đức biết nêu cao đại nghĩa, biết đánh giặc vì dân vì nước. Nguyễn Trãi đã dâng lên Lê Lợi "Bình Ngô sách"- Đây là toàn bộ đường lối sách lược, chiến lược của cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược- từ đó "Bình Ngô sách" đã trở thành cương lĩnh soi đường chỉ lối cho cuộc kháng chiến thắng lợi. Với chủ trương sách lược, chiến thuật đánh vào lòng địch, chống sức mạnh toàn dân đánh giá, coi trọng sức dân... Nguyễn Trãi đã trở thành vị quân sư bên Lê Lợi, trở thành người tham mưu đắc lực "giúp việc trù hoạch nơi màn trướng" cùng Lê Lợi làm nên thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giải phóng đất nước, quét sạch quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi. Đã ghi dấu như một chiến công chói lọi trong lịch sử dân tộc. Sau thắng lợi Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế công bố xây dựng một triều đại mới thái bình thịnh trị. Trong thắng lợi của dân tộc ấy công lao và cống hiến của Nguyễn Trãi là vô cùng to lớn.
Đất nước hoà bình thống nhất, Nguyễn Trãi ra làm quan giúp dân giúp nước, hằng mong xây dựng một nước thái bình thịnh trị, vua sáng tôi hiền, anh em hoà thuận, nhân dân tự do hoà bình hạnh phúc. Nhưng những tư tưởng tiến bộ của ông đã không được đương thời thừa nhận, cùng với sự gièm pha đố kị của các thế lực đen tối trong triều đình, mười năm sống với triều đại mới là mười năm Nguyễn Trãi dằn vặt đau khổ. Triều đình mới mà ông hằng gắng bao công sức trí tụê xây dựng lại gây cho ông bao trái ngang, có lúc ông phải lui về Côn Sơn sống ẩn dật thanh nhàn.
"Côn Sơn nước chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm
Trong rừng thông mọc như nêm
Ngồi trong bóng mát ta ngâm thơ nhàn"
Tuy sống ẩn dật nhưng Nguyễn Trãi vẫn đêm ngày ưu tư lo cho dân cho nước:
“Bui một tấm lòng ưu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộnc nước triều dâng”.
Tư tưởng trí tuệ của ông vẫn được triều đại đương thời đánh giá cao, triều đình tỏ lòng tin cậy ông. Vì vậy năm 1940 ông được gọi về triều nhận chức “Gián nghị đại phu kiêm tri tam sự quản”. Vẫn chức can gián vua và nhà vua giao cho ông chỉ huy hai đạo ở Đông bắc là Quảng Ninh và Hải Dương, hàng ngày được ở Côn Sơn thỉnh thoảng mới về triều.
Dưới triều Lê, Nguyễn Trãi đã giữ các chức vụ: Quan phục hầu, Nhập nội hành khiển kiêm thượng thư bộ lại kiêm quan công khu mật viện (điều khiển các công việc nội chính trong cung đình đồng thời giải quyết các cán bộ khu mật viện); Gián nghị đại phu kiêm tri tam sư quán (chức quan can giám vua và quản lý các đạo); Hàn lâm viện thừa chỉ kiêm quốc trừ giám (trông coi khoa học, học hành…). Dưới các chức vụ quan trọng trên Nguyễn Trãi không một chút lơ là, dồn hết tâm sức vào công cuộc kiến thiết xây dựng đất nước. Nhưng những tâm huyết của ông luôn bị xem nhẹ, bị gièm pha, đố kỵ, không được trọng dụng.
Năm 1442 vua Lê Thái Tông đi duyệt binh ở Chi Lăng (Hải dương). Trong lần đi này còn có Nguyễn Thị Lộ – vợ thứ của Nguyễn Trãi. Không may vua qua đời đột ngột, bọn quan lại vốn đã đố kị ghen ghét với ông nhân sự kiện này đã vu oan cho vợ chồng Nguyễn Trãi âm mưu giết vua kết ông vào tội “tru di tam tộc”. Cái chết của ông cùng hơn 60 mạng người họ Nguyễn khi đó đã để lại cho người đời niềm thông cảm và lỗi xót thương vô hạn cho một con người cả cuộc đời vì nước vì dân.
2. Tác phẩm.
Cả cuộc đời Nguyễn Trãi cống hiến cho dân tộc, cho nhân dân. Khi còn trẻ thì trăn trở tìm kế sách đánh giặc ông đã viết “Bình Ngô đại cáo” là kế sách đánh giặc, là đường lối cơ bản của cuộc kháng chiến với kế sách “tâm công”- đánh vào lòng người, lấy ít địch nhiều, tránh mạnh đánh yếu, trọng sức dân. Bình Ngô sách đề cập đến tư tưởng xây dựng lực lượng đánh giặc bằng sức dân, phát huy sức mạnh của toàn dân vào cuộc kháng chiến. Khi làm quân sư cho Lê Lợi thì viết thư thảo dụ, đấu tranh ngoại giao với những bài viết được tập hợp trong “Quân trung từ mệnh tập” cho thấy bút chiến đầy sắc sảo của ông. Với kế đánh vào lòng địch “Quân trung từ mệnh tập” là phát triển toát lên tư tưởng quân sự của Nguyễn Trãi về đường lối đánh giặc tâm công, làm hàng ngũ kẻ thù lao lúng không đánh mà lui đúng như nhận định của người đời “ngòi bút chiến đấu của Nguyễn Trãi có sức mạnh như 10 vạn tinh binh”, làm kẻ thù hoang mang dao động không đánh mà tự rút binh
Kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, mùa xuân 1428 thay mặt Lê Lợi ông viết “Bình Ngô đại cáo” tổng kết cuộc chiến 10 năm gian khổ, bố cáo thiên hạ xây dựng một chính quyền mới. Qua “Bình Ngô đại cáo” nêu bật nên tư tưởng của Nguyễn Trãi về vai trò của nhân dân trong công cuộc kháng chiến, cũng như tư tưởng nhân nghĩa nhân đạo của Nguyễn Trãi được thể hiện qua tác phẩm này.
Khi làm quan triều Lê, Nguyễn Trãi viết rất nhiều chiếu dụ, văn thay mặt cho Lê Lợi thể hiện ý chí của mình xây dựng một Nhà nước, một chế độ mới ở đó coi trọng sức dân, lấy dân làm gốc.
Đi nhiều, hiểu biết nhiều về mỗi vùng, miền, nước Nguyễn Trãi khi về ở ẩn ông là ức trai thi tập, Quốc âm thi tập, Phú núi Chi Linh…Các tác phẩm của Nguyễn Trãi thể hiện tầm sâu trí tuệ của một nhà chính trị, nhà ngoại giao, nhà quân sự, nhà văn hoá lớnởnTên mỗi lĩnh vực, Nguyễn Trãi đều để lại những dấu ấn rõ nét. Nhưng tiêu biểu hơn cả trong những tác phẩm ấy Nguyễn Trãi để tâm nghiên cứu tư tưởng về chính trị.
3. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành tư tưởng của Nguyễn Trãi
Tư tưởng của một con người cũng được hình thành và phát triển từ một hoàn cảnh lịch sử – xã hội cụ thể. Sự ra đời tư tưởng của Nguyễn Trãi cũng không nằm ngoài quy luật ấy… Nói cụ thể hơn, tư tưởng của Nguyễn Trãi ra đời chịu ảnh hưởng và tác động của hoàn cảnh lịch sử xã hội của nước ta thời kỳ đó. Chúng ta có thể khái quát những nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành tư tưởng của ông qua những nội dung sau.
a. Bối cảnh lịch sử.
Nguyễn Trãi sinh ra và lớn lên trong một thời kỳ lịch sử đầy bão táp biến động. Triều Trần thì sa đoạ, nhiều đại thần mắc tệ tham nhũng, rượu chè cờ bạc, tham ăn hiếu sắc. Vua Trần Dụ Tông ăn chơi xa xỉ truỵ lạc, cung đình khủng hoảng khi Dương Nhật Lễ nối ngôi Dụ Tông đã âm mưu đổi họ bị các quan thần triều đình lật đổ. Như vậy là triều đình thì xa đoạ, chính trị thì khủng hoảng trầm trọng. Triều Trần đang trên đà suy tàn. Bên cạnh đó thì làn sóng khởi nghĩa của nô tỳ và nông nô, nông dân chống lại chế độ điền trang thái ấp và sự bóc lột tàn bạo của tầng lớp quý tộc… đã làm cho chế độ phong kiến nhà Trần lung lay đến tận gốc rễ.
Bên ngoài Champa nhiều lần gây xung đột chiến tranh với Đại Việt, thậm chí nhiều lần Chế Bồng Nga còn đem quân đánh ra tận kinh thành Thăng Long. Cùng lúc đó ở phương Bắc nhà Minh liên tục gây sức ép, hạch sách đòi cống nạp, mượn đường, đe doạ xâm lược… càng làm cho cuộc khủng hoảng chính trị nhà Trần thêm sâu sắc đe doạ đến sự tồn vong của vương triều này.
Trong bối cảnh đó, Hồ Quý Ly – một đại thần đã từng phục vụ cho nhiều đời vua Trần đã lần lượt thâu tóm quyền binh triều đình vào tay mình. Năm 1400 Hồ Quý Ly ép cháu ngoại là vua Trần Thiệu Đế nhường ngôi cho mình lập nên nhà Hồ. Nhưng chưa được bao lâu nhà Hồ đã phải đương đầu với hoạ xâm lăng bên ngoài đang đe doạ.
Vào đầu thế kỷ XV nhà Minh trở thành một đế chế lớn mạnh ở phương Đông, muốn tham vọng bành trường xuống cả cùng đông nam á. Vua Minh sai Trịnh Hoà đem quán triệt xuống đông nam á, bằng mọi thủ đoạn mua chuộc, đe doạ vũ lực, Trịnh Hòà đã buộc nhiều nước trong khu vực này phải chịu thần phục cống nạp cái gọi là thiên triều – Hoàng đế
Với vị trí chiến lược quan trọng, chặn ngang con đường bành trướng xùng phương Nam của nhà Minh, nước Đại Việt trở thành mục tiêu xâm lược chính trong toàn bộ kế hoạch bành trướng của chúng.
Sau khi thâu tóm được quyền lực, Hồ Quý Ly sẵn ý thức được nguy cơ của một cuộc chiến tranh xâm lược lớn trừ phương Bắc, cùng với một số cải cách quan trọng nhà Hồ đã ráo riết tăng cường quân đội, xây dựng thành luỹ, rèn đúc vũ khí, chuẩn bị sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh chống giặc xâm lược.
Tháng 11 năm 1406 lấy cớ “Phù Trần dịệt Hồ”, quân Minh đã ồ ạt kéo vào nước ta với lực lượng 80 vạn, chúng đã nhanh chóng thôn tính được nước ta. Sự thất bại của nhà Hồ theo Nguyễn Trãi thì “Chính trị thì để mất lòng dân, quân sự thì nặng về phòng ngự, chỉ ưa có sức mạnh toàn dân, chưa nêu cao được nhân nghĩa” nên cuộc chiến tranh mau chóng thất bại.
Chiếm được nước ta, Minh thành tổ vội khoe khoang: “trước thời Tống, Nguyên... An Nam trái mệnh, sai quân sang đánh đều thất bại, vũ công lần này hơn hẳn đời xưa. Tiếng to công lớn, truyền để muôn đời…”.
Chiếm được nước ta với bản chất tham lam tàn ác kẻ thù đã gây ra biết bao tội ác tày trời, thẳng tay chém giết, vơ vét, bắt nhân tài, buộc nhân dân ta phải từ bỏ phong tục cũ, lập khuôn theo lối sống người Hán, phá huỷ văn hoá, bai đá, sách vở, giấy tờ… Quốc sách của chúng là triệt để đồng hoá, huỷ diệt nền văn hiến, xoá bỏ vĩnh viễn tên nước Đại Việt, biến nước ta thành quận huyện của chúng.
Kẻ thù hung bạo tàn ác, song nhân dân ta không chịu khuất phục đã liên tục vùng lên khởi nghĩa đánh đuổi chúng như do thiếu đường lối sách lược, chưa tìm được minh chúa đủ tài đủ sức để lãnh đạo nên đều bị thất bại. “Dân tộc ta chiến đấu kiên cường, dũng khí có thừa nhưng tiền đồ thắng lợi còn mờ mịt xa xăm”. Vấn đề đặt ra cấp thiết lúc này đối với dân tộc ta lúc này là làm thế nào có con đường cứu nước đúng đắn để đưa sự nghiệp giải phóng đến thắng lợi?
Nguyễn Trãi sau 10 năm bôn ba trăn trở suy tính “sách lược theo suy tính đã tường” đã đến với Lê Lợi - đến với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn cùng với kế sách đánh giặc tấn công, lấy sức dân, giương cao nhân nghĩa, chính nghĩa đã quy tụ sức mạnh toàn dân vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Với đường lối đúng đắn đã giải quyết được cuộc khủng hoảng đường lối chiến tranh. Nguyễn Trãi như một người tháo bỏ những bế tắc về chiến lược cuộc củng cố chống quân Minh thế kỷ XV. Đường lối đúng đắn cùng với nghĩa quân anh dũng danh tiếng lừng danh chiến đấu quên mình như Trương Hán Siêu, Lê Lai, … được sự cỏ vũ mạnh mẽ của toàn dân đã đưa cuộc khởi nghĩa đến thắng lợi hoàn toàn năm 1427.
2. Kế thừa truyền thống vẻ vang của dân tộc.
Nguyễn Trãi là người con của dân tộc Đại Việt – một dân tộc có truyền thống yêu nước yêu hoà bình, chuộng hoà hiếu, nhân nghĩa. Ông đã rất tự hào về truyền thống đó:
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc, Nam cũng khác
Từ Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đứng vững một phương.
Truyền thống anh hùng nhân gnhĩa của dân tộc bắt nguồn từ tinh thần yêu nước nồng nàn, từ lòng thương dân vô hạn, từ khí phách bất khuất hiên ngang quên mình vì nghĩa của dân tộc mỗi khi đất nước có loạn lạc chiến tranh quyết vùng lên bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc. Truyền thống đó được chứng minh qua các thời kỳ lịch sử, từ bà Trưng – bà Triệu quật khởi quyết đến nợ nước trả thù nhà, đó là truyền thống anh dũng của Ngô Quyền tiêu diệt quân Nam Hán khôi phục độc lập dân tộc, của các triểu đại Lý, Trần, chiến đấu hết mình bảo vệ đất nước, bảo vệ độc lập. Sở dĩ lập lên được những chiến công oanh liệt đó là do các cuộc kháng chiến đã phát huy được sức mạnh của truyền thống giữ nước, biết đoàn kết sức dân, đề cao sức dân, coi trọng quyền lợi của nhân dân, nêu cao tinh thần nhân nghĩa… Những truyền thống của dân tộc đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự hình thành tư tưởng của Nguyễn Trãi. Truyền thống dân tộc đã vun đúc lên trong Nguyễn Trãi lòng yêu nước thương dân, tinh thần độc lập dân tộc, tình yêu hoà bình, hoà hiếu để sau này cả cuộc đời mình chỉ một lõi lòng đau đáu vì nước vì dân, nêu cao đạo lý nhân nghĩa, coi muôn dân như một mà chăm đẫm vỗ về.
3. Truyền thống gia đình.
Ông ngoại là quan tư đồ Trần Nguyên Đán sớm có tư tưởng tiến bộ. Người đã sẵn sàng bỏ qua lễ giáo phong kiến cho phép mối tình của cha mẹ Nguyễn Trãi được toại nguyện. Trần Nguyên Đán là một tri thức nho học, sống trong cảnh thời loạn lạc ông thương dân, thấu hiểu nỗi khổ cực. Từ nhỏ Nguyễn Trãi sớm được dạy giỗ chỉ bảo ân cần của ông ngoại. Nên đã tiếp thu từ ông ngoại mình một đức tính yêu dân yêu nước, tấm lòng khoan dung độ lượng.
Cha Nguyễn Trãi là trí thức Nho học gốc nông dân, là người cần cù chịu khó học rộng tài cao, tư chất thôngminh. Nguyễn Trãi đã tiếp thu được những phẩm chất đó của Nguyễn Phi Khanh, đặc biệt là tinh thần yêu nước thương dân luôn luôn có tâm với dân chúng, mong cho nhân dân đỡ khổ:
“Chỉ ước thân ta làm ống bễ
Thổi làn gió ấm tới muôn phương”.
Tư tưởng vì dân, vì nước đó của cha đã ảnh hưởng không nhỏ đến Nguyễn Trãi sau này. Sinh ra và lớn lên gặp thời loạn lạc, gia đình trí thức ấy cũng có thời kỳ ra sinh phải về quê sống lam lũ cùng nông dân nên ông đã thấu hiểu nỗi khổ của nhân dân lao động. Và khi nước mất thì tình thương ấy càng trở lên tha thiết hơn bao giờ hết, nó thôi thúc Nguyễn Trãi phải tìm ra một con đường đúng đắn cứu nước cứu dân.
Từ truyền thống của gia đình của dòng họ, từ thực tế cuộc sống của gia đình những năm vất vả đã để lại trong Nguyễn Trãi nỗi cảm thông, sâu sắc, yêu nước thương dân là mạch cảm xúc chủ đạo chi phối cuộc đời hoạt động chính trị của Nguyễn Trãi. Cuộc sống gần gũi với người lao động giúp Nguyễn Trãi sớm thấu hiểu nỗi cực nhọc và thông cảm với họ; sớm nhận ra khả năng sức mạnh đoàn kết sức dân "đẩy thuyền là dân, lật thuyền là dân" đó là cơ sở để tạo nên ở ông gắn tổ quốc với nhân dân. Từ đó lòng yêu nước thương dan trở thành động cơ chi phối toàn bộ tư tưởng và hành động của Nguyễn Trãi.
Từ hoàn cảnh xã hội hiện tại, truyền thống dân tộc, đất nước và gia đình đã hun đúc lên trong con người Nguyễn Trãi những tình cảm yêu nước thương dân, nhân nghĩa nhân đạo, để rồi cả cuộc đời mình đêm ngày “cuồn cuộn” một lỗi lòng vì dân vì nước.
II. Nhân nghĩa – tư tưởng chủ đạo trong tư tưởng chính trị nguyễn trãi
Tư tưởng nhân nghĩa là đường lối chính trị, là chính sách cứu nước dựng nước và trị nước. Nghiên cứu tư tưởng chính trị của Nguyễn Trãi chúng ta thấy toát lên những nội dung cơ bản sau đây.
1. Nhân nghĩa là yêu dân – thương dân, lấy nhân dân làm gốc
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Cứu nước trước hết phải cứu dân đó là nét nổi bật trong tư tưởng chính trị của Nguyễn Trãi. Hơn ai hết Nguyễn Trãi thấu hiểu được nỗi thống khổ của nhân dân khi phải chịu ách thống khổ ngoại hạng. Thực tế đời sống của nhân dân mà Nguyễn Trãi sống cạnh họ, làm việc cùng họ, chịu khổ cùng họ không thể không in sâu vào tâm trí ông. Cho nên chi muốn lớn lên ông đã “Đề tâm dân chúng, mình lo trước điều thiên hạ phải lo”.
ở đây thiên hạ lo là lo cái đói khổ, áp bức bóc lột, đề tâm dân là đề tâm vào những điều đó, lo trước thiên hạ là phải làm thế nào để dân chúng khỏi bị đói khổ khỏi bị bất công, áp bức bóc lột . Cho lên khi làm quan thì “Bình sinh chỉ ân một tấm lòng trong trước thiên hạ” và rồi khi về ở ẩn tại Côn Sơn vẫn “Nghĩ tới dân vẫn một niềm lo trước thiên hạ”.
Như vậy là cả cuộc đời Nguyễn Trãi để tâm dân chúng, lo tới đời sống ấm no của dân chúng và đấu tranh đến cùng cho lí tưởng đó. Nguyễn Trãi chán ghét Triều Trần, Triều Hồ vì họ không đảm bảo được đời sống no ấm cho nhân dân, đưa nhân dân vào cảnh nước mất nhà tan, muôn dân cơ cực khi quân Minh mượn cớ “điều dân phạt tội”, mượn điều “nhân nghĩa” phù Trần diệt Hồ… xâm lược nước ta Nguyễn Trãi thấy rõ bộ mặt giả nhân giả nghĩa của chúng và rồi coi chúng là kẻ thù không đội trời chung.
“Kẻ ở đài Ngự sử thì ngậm miệng làm thinh, ngồi nhìn dân khổ, kẻ chăm dân thì không lo nuôi nấng, chỉ vụ vơ vét, kẻ làm trưởng thì không để ý bảo vệ dân, hoành hành tàn ngược. Còn như bọn hoạn quan thì chuyên mặt thu vét, bóc lột lương dân, kiếm ngọc tìm vàng kiệt chằm trơ núi, tìm tòi nhặt nhạnh, không còn sót gì. Muốn tiền của nhiều thì đục khoét của dân mà lấp hố dục; muốn nhà cửa cao đẹp thì cướp việc mùa màng để bắt dân đắp xây. Thuế công thu vào một phần giám lâm ăn vào quá nửa. Quan lại có lòng thương dân chúng tuyệt không có ai; quan lại chỉ coi dân như cừu thú, đều như thế cả, càng ngày càng tệ, dân sống không vui như đắm trong nước đục như ngồi trên đống lửa”.
Thái độ đó của ông là do tấm lòng yêu dân, thương dân quyết định, ông căm thù giặc vì chúng hại nhân dân lương thiện và ông thề quyết tâm tiêu diệt giặc cùng với nhân dân đồng lòng đồng sức “chuyên chém giết để thị uy, coi mạng người như cỏ rác, bắt trói vợ con người ta, cuốc đào lăng mộ của nước ta, cấm cá muối để dân khốn thức ăn, đòi gấm lụa để dân thiếu đồ mặc, ngọc vàng vơ vét hết, tê tượng cung cấp luôn, chính trị thì hà khắc, hình phạt thì thâm thương, nhân dân không còn đường sống, kẻ vô tội kêu trời oán trách, người nhân nghĩa nghiến răng căm hờn đều muốn liều chết diệt giặc…”.
Ông rất thương cảm với nỗi thống khổ của nhân dân, nó càng thôi thúc ông tìm cách cứu dân. Chính trong gian nan khổ ải lưu lạc trong nhân dân Nguyễn Trãi thấy được sức mạnh của sự đoàn kết sức dân, đã nhận thấy sức mạnh của nhân dân, đánh giá đúng tầm cao vị trí vai trò quan trọng của nhân dân. Cho nên khi làm quân sư của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn ông đã chú trọng đoàn kết sức dân, lấy nhân dân làm trọng tâm của cuộc kháng chiến, tư tưởng lấy dân làm trọng đó kế thừa từ tư tưởng “khoan thư sức dân” của Trần Quốc Tuấn và bài học xương máu của triều Hồ “Đánh giặc không sợ chỉ sợ lòng dân không an” (Hồ Nguyên Trừng). Thấy được sức dân trước hết là thấy được sức mạnh đoàn kết của nhân dân nên ông đã tập hợp nhân dân mong lệ phí bốn phương cùng dựng cờ khởi nghĩa.
Dân trong quan niệm của Nguyễn Trãi lấy lớn bao gồm nông dân, nô tì, nô lệ, địa chủ, người giàu có… Ông chủ trương tập hợp họ lại không phân biệt để cùng nhau đồng sức đồng lòng đánh giác lên đã hợp thành sức mạnh của khối đại đoàn kết có sức mạnh như “nước cao ngàn thước” để đánh giặc, thắng giặc. Đó là kế sách, bí quyết đánh giặc của nhân dân ta.
Từ đó cho thấy chiến lược “chiến tranh nhân dân” có sức mạnh vô địch. Khi hưởng thái bình độc lập, đất nước sạch bóng quân thù thì tình yêu thương nhân dân của Nguyễn Trãi được thể hiện bằng sự quan tâm lo lắng đến cuộc sống của nhân dân như: chia ruộng đất cho dân, giảm quân đội để được an nghỉ điều đó được thể hiện qua các chiếu thư của Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi viết năm 1429.
Chiếu thư về việc chia ruộng đất cho nhân dân theo tinh thần: “Người đánh giặc thì nghèo, người rong chơi thì giàu, người đi chiến đấu thì không có một tấc một thước để mà ở mà những kẻ du thư du thực không có ích gì cho nước thì ruộng đất lại quá nhiều, hoặc có kẻ làm nghề trộm cướp, thành ra không ai hết lòng với dân với nước chỉ ham nghĩ phú quý mà thôi. Nay sắc chỉ này cho các quan thần bàn định số lượng đất cho các quan và dân trừ đại thần trở xuống cho đến người già yếu mồ côi hoá chồng, đàn ông đàn bà trở lên loại nào được cấp bao nhiêu thì tấu lên”. Với chiếu thư về việc chia ruộng đất triều đình đã quan tâm đến đời sống của người dân. Ngay sau khi chiến taanh kết thúc, triều đình nhanh chóng điều hoà lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, giải quyết thoả đáng quyền lợi của nhân dân. Chiếu thư cho thấy tư tưởng tiến bộ, khả năng quan sát nhìn nhận và tư tưởng tiến bộ của triều đại mới mà Nguyễn Trãi là đại diện sở dĩ có được tư tưởng trên là do Nguyễn Trãi thấy rằng nhân dân dốc lòng theo chính nghĩa suy cho cùng là theo đúng mục đích được độc lập tự do, có cơm ăn, có ruộng cấy, trâu cày. Nay đã giành được độc lập rồi thì phải nhanh chóng giải quyết nhiệm vụ chia ruộng đất cho nhân dân - đó là nhiệm vụ chính trị chiến lược đã giải quyết tốt nhất mối quan hệ lợi ích cho các giai tầng, giai cấp trong xã hội.
Tiếp theo đó Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi và triều đình làm việc mà ông đã dụ hoá với tướng sĩ thời kỳ chiến tranh: “số quân hiên tại là 35 vạn, khi nào khôi phục được Đông Đô, bấy giờ sẽ cho 25 vạn về làm ruộng chỉ để lại 10 vạn làm việc phòng thủ và bảo vệ đất nước”. Nguyễn Trãi để kế tiếp chính sách ngụ binh ư nông, khoan thư sức dân, mà các đời trước binh lính sau khi tham gia chiến tranh chịu nếm một lần gian khổ ải trên chiến trường nay được về nghỉ ngơi. Chính sách “ngụ binh ư nông” này một mặt giảm bớt được lực lượng quân sự khi không cần thiết, một mặt phát huy sức dân để phục vụ sản xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế, binh lính được về quê hưởng cuộc sống hạnh phúc, ấm no. Thật không ai bằng Nguyễn Trãi, chăm lo mọi mặt đời sống cho nhân dân. Qua đó mới thấy Nguyễn Trãi thương dân, quý dân, lo cho dân biết nhường nào?
Tiếp đó Nguyễn Trãi liên tục nhắc nhở gián tiếp Lê Lợi phát huy tốt dân chủ trong cách trị nước, qua các chiếu dụ của Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi viết ta thấy toát lên tư tưởng dân chủ của Nguyễn Trãi:
“Nếu ai thấy điều gì của trẫm hoặc có hại cho dân cho nước, hoặc không tiện cho việc quân, hoặc làm việc vô cớ, hoặc thuế khoá nặng nề, hoặc có việc tà dâm bạo ngược thì xin sớ tấu sửa lại…”. Hoặc “… ai thấy trẫm có chính lệnh hà khắc, thuế má nặng nề hại cho dân… hoặc các đại thần hối lộ nhiều hại nhân dân thì tấu lên…”2.
Chiếu thư khẳng định nhân dân có quyền được tham gia vào công việc của Nhà nước, đây là điểm tư tưởng tiến bộ hơn của Nguyễn Trãi. Ông chủ trương thực hiện công bằng bình đẳng trong bộ máy cai trị triều Lê nhằm thực hiện tư tưởng cùng nhân dân bàn bạc mọi việc, phát huy tính dân chủ trong nhân dân… Nhưng tiếc thay chưa thực hiện được bao nhiêu thì những thế lực đen tối trong triều đình đã chặn những bước tiến bộ trong tư tưởng chính trị của ông.
Dù không được tôn sùng như trước nữa, có lúc phải lui về Côn Sơn ở ẩn nhưng Nguyễn Trãi vẫn luôn luôn nhắc nhở các bậc đế vương phát huy tính dân chủ: Khi mượn lời Lê Lợi răn dạy Thái tử ông viết: “Xưa kia ta gặp thời loạn lạc, dựng nghiệp khó khăn, hơn hai chục năm mới thành nghiệp lớn, tình dân đau khổ đều được tới trường, đường đời gian nan cũng đã từng trải. Thế mà lúc trị dân tình ngay dối còn điều khó rõ, việc nghi nan còn có chỗ chưa phàm…”. Nguyễn Trãi đưa ra quan điểm rằng người làm vua cầm đầu thiên hạ phải là người thấy rõ lòng dân, thấy rõ tình ngay, dối, phân biệt rạch ròi ngay gian, thấy hiểu lòng dân thì mới trị được dân. Người đứng đầu như vậy thì dân mới đỡ khổ, thiên hạ mới theo về cho nên là làm vua phải thương yêu dân chúng, tránh xa tửu sắc, hoang dâm… trên đáp được lòng trời, dưới thoả lòng dân thì quốc gia mới thái bình thịnh trị. Nguyễn Trãi đứng trên lập trường quân quyền lớn của nhân dân mà đề ra những tiêu chí cho kẻ cầm quyền phải làm theo. Bởi hơn ai hết Nguyễn Trãi chứng kiến cảnh loạn lạc triển Trần, Hồ, là người đánh giặc cứu nước, nên ông hiểu được lực lượng sức mạnh của nhân dân là như thế nào đối với cơ nghiệp của một triều vua “mến người có nhân là dân mà như con sông chở thuyền và lật thuyền cũng lại là dân”.
Đánh giá đúng vai trò của dân, của sức mạnh đoàn kết sức đân trong xây dựng đất nước. Cả cuộc đời Nguyễn Trãi luôn lo trước nỗi lo thiên hạ, đấu tranh quên mình vì nhân dân, yêu dân, thương dân như con. Các quan điểm của Nguyễn Trãi vì dân, về vai trò của nhân dân ta có thể tổng kết những nguyên nhân dẫn ông những quan điểm trên đó là:
Thứ nhất: Do tầng lớp đại diện cho dân tộc, hoặc đang vươn lên thực hiện vai trò này bao giờ cũng thấy mình có trách nhiệm “nuôi dân”, “chăm dân”, “huệ dân”. Lê Lợi, Nguyễn Trãi có lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn được lịch sử trao cho sứ mệnh đuổi giặc cứu nước lại càng rõ ý thức trách nhiệm này.
Thứ hai: Do dân chúng nhất là nhân dân lao động là những người chịu khổ nhất trong cảnh áp bức bóc lột của giặc ngoại xâm. Cảnh đó đã làm xúc động đến tâm can những người có tâm huyết có tấm lòng với dân với nước, xót xa biết bao khi thấy giặc:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa tàn
Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ”.
Và tự mình suy nghĩ: tình dân đau khổ đều được tỏ trường, đường đời gian nan cũng đã từng trải.
Thứ ba: Do an dân là điều kiện để xã hội, để chính nghĩa giành được thắng lợi và triều đại được củng cố điều mà bất cứ ai khi có tư duy chính trị sắc sảo đều phải quan tâm tới.
Một lần nữa chúng ta khẳng định rằng Nguyễn Trãi đã đánh giá đúng vai trò của nhân dân, tại thời điểm đó đã phát huy cao nhất tư tưởng lấy dân làm gốc, nên phải yêu dân thương dân.
Trong lịch sử phong kiến nước nhà khó thấy có một vị quan nào mà cả cuộc đời mình canh cánh một nỗi lòng yêu dân như Nguyễn Trãi.
2. Ý chí quyết tâm tiêu diệt giặc
Nguyễn Trãi cho rằng: nhân nghĩa là cứu dân trừ bạo, cứu nước khỏi xâm lăng, bảo vệ tổ quốc, bảo vênhân dân. Đốivới ông không gì bất nghĩa bất nhân bằng bọn vua quan nhà Minh đã vô cớ kéo quân sang xâm lược, giày xéo quê hương, tàn sát đồng bào Việt, vơ vét của cải dân Việt… và ngược lại không có gì đại nghĩa đại nhân bằng cả một dân tộc đang vùng lên quyết tâm chiến đấu hết mình để tự giải phóng cho nhân dân, cho đất nước. Tổng kết phương pháp, đường lối đấu tranh của nhân dân Nguyễn Trãi đã hình thành lên tư tưởng:
“Dĩ đại nghĩa nhi thắng lung tàn
Dĩ chí nhân nhi địch cường bạo”
Nghĩa là:
“Lấy đại nghĩa để thắng lung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo”.
Đó chính là kế sách cứu nước mà Nguyễn Trãi vạch ra sau bao nhiêu năm gian nan bôn tẩu, sau bao đêm nghĩ suy trăn trở. Ông đã tổng kết lại và dâng lên Lê Lợi trở thành đường lối của cuộc kháng chiến.
Theo Nguyễn Trãi lấy đại nghĩa thắng lung tàn là lấy tinh thần vì nghĩa lớn, tức là lấy lòng yêu nước cao độ để đánh giặc cướp nước. Lấy chí nhân thay cường bạo là lấy lòng yêu nước thương dân, yêu thương nhân dân rất mực để thay cho cường quyền thay cho bạo lực tàn ác là trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược. Chí nhân và đại nghĩa kết hợp thành nhân nghĩa.
Song, nhân nghĩa của Nguyễn Trãi không loại trừ bạo lực:
“Điếu phạt chi sư tất tiên khử bạo
Nghĩa sư chi cử vụ tại an dân”.
Tức là:
Dấy quân đánh giặc trước tiên trừ bạo lực hại nước
Làm việc nhân nghĩa cốt để nhân dân yên ổn).
Bạo lực của nhân nghĩa là bạo lực của chính nghĩa chống lại bạo lực phi nghĩa. Lấy cái chính nghĩa vì cái chính nghĩa mà dẹp bỏ đi cái phi nghĩa đấy là một sách lược đúng đắn cho nên Nguyễn Trãi dương cao ngọn cờ chính nghĩa tập hợp lực lượng đánh đuổi thế lực phong kiến ngoại bàng xâm lược. Nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là như thế. Khổng Tử, Mạnh Tử… các bậc thánh hiền đạo nho không ai không nói đến nhân nghĩa nhưng chỉ là yêu thương những người khốn khổ, yêu thương dân làm cho dân đỡ khổ nhưng vẫn phân chia đẳng cấp thứ bậc trong thiên hạ và có lúc coi cái khổ là điều dĩ nhiên của kẻ tiểu nhân. Không ai như Nguyễn Trãi nhân nghĩa là thương yêu dân không phân biệt đẳng cấp, địa vị xã hội. Nhân nghĩa của Nguyễn Trãi bao hàm rộng khắp mọi tầng lớp, giai cấp xã hội cho lên vì nhân nghĩa phải trừ bạo ngược, lấy lòng yêu nước thiết tha cao độ để đánh giặc chính là lấy tinh thần độc lập dân tộc để đánh giặc cướp nước, lấy lòng yêu thương nhân dân vô hạn để thay cho cường quyền tàn bạo. Cũng chính là lấy tinh thần dân chủ để thay cho áp bức bóc lột.
Tư tưởng nhân nghĩa đã được Nguyễn Trãi kế thừa và phát triển lên đến đỉnh cao đó là những nội dung tư tưởng mới, tiến bộ. Trên cơ sở gắn bó yêu nước với yêu dân là một tư tưởng nhân nghĩa của ông đã khái quát hoá sự kết hợp tinh thần độc lập với dân chủ trong mọi hoạt động xã hội trong đạo đức con người. Nói nhân nghĩa là nói dân tộc và dân chủ kết hợp làm một để đánh giặc cứu nước, làm cho nước độc lập giàu mạnh, dân ấm no hạnh phúc như ông nói rõ “làm việc nhân nghĩa cốt để yên dân”.
Cho nên các lãnh tụ khởi nghĩa Lam Sơn đã dương cao ngọn cờ nhân nghĩa để đánh giặc ngoại xâm để dưới ngọn cờ chính nghĩa ấy quân giặc đã phải khiếp run “Bảo mày giặc giữ Phương Chính! đạo làm tướng lấy nhân nghĩa làm gốc, lấy trí dũng làm cành. Nay chúng mày chỉ chuộng dối trá, giết hại kẻ vô tội, hãm hại người ta vào đất chết chẳng chút xót thương, việc ấy, trời đất không dung, thần, người đều giận, cho nên liền năm chinh chiến càng đánh càng thua…”.
Hoặc “Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, lên công lớn phải lấy nhân nghĩa làm đầu. Chỉ có gồm đủ nhân nghĩa thì công việc mới thành được. Nay nước mày nhân việc họ Hồ lỗi đạo, mượn lấy cái danh “thương dân đành tội” lòng thực là để thoả mãn cho được cái thực “cướp đất giết người”, xâm chiếm bờ cõi ta, săn bắt sinh dân ta, nặng thuế nghiêm hình, vơ vét vật quý, dẫn đến nhân nghĩa lương thiện trong xóm thôn cũng không thể sống yên, nhân nghĩa mà lại như tế ư?”.
Nguyễn Trãi đã trích quan điểm nhân nghĩa của Khổng Tử mà ngay quân Minh vẫn đương thách cao làm chiêu bài xâm lược mà lột trần bộ mặt giả nhân giả nghĩa của địch. Nguyễn Trãi đã tố cáo, vạch mặt bản chất dối trắ với nhân nghĩa, và của kẻ địch, chà đạp lên chính nghĩa đàn áp bóc lột nhân dân để nơi nơi thức tỉnh. Đó cũng là nhân nghĩa, là lí do Lê Lợi và Nguyễn Trãi dấy quân nhân nghĩa để thảo phạt kẻ phi nghĩa, dương cao ngọn cờ nhân nghĩa để đuổi giặc cứu dân đem lại độc lập tự do cơm no áo ấm hoà bình hạnh phúc cho nhân dân là việc làm đại nhân đại nghĩa không gì bằng.
Với những lề lối đanh thép, cương quyết mà đẩy thuyết phục Nguyễn Trãi đã “đánh” cho giặc tơi bời không kịp nghĩ, không kịp thở, làm cho tinh thần giặc hoang mang, hàng ngũ địch phân tán, ý chí giặc lung lay. Đồng thời để giặc hiểu được sức mạnh của dân nghĩa của chính nghĩa để kẻ địch nhận thấy hành động xâm lược của mình là phi nghĩa, làm cho chúng thức tỉnh đạo đức mà nhanh chóng quy hàng. Chiến lược “tâm công” của Nguyễn Trãi đã phát huy hiệu quả cao kết hợp với những thắng lợi quân sự đã góp phần làm lên thắng lợi hoàn toàn, quân Minh phải rút quân về nước, dập tắt chiến tranh.
ý chí quyết tâm, tin tưởng quyết trừ giặc, dẹp bạo ngược Nguyễn Trãi cùng với nghĩa quân Lam Sơn, với sức mạnh cả dân tộc đã chiến đấu và chiến thắng oanh liệt giành lại độc lập tự do hoàn toàn cho tổ quốc.
3. Lòng nhân đạo và tình yêu hoà bình
Xét ở góc độ khác tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn bao gồm cả lòng nhân đạo sâu sắc và tình yêu hoà bình hoà hiếu.
Lòng nhân đạo ấy còn được thể hiện ở thái độ tha cho giặc khi chúng đã thua trận, trong thơ văn của ông thì ông gọi nó là "lòng nhân" là "lòng hiếu sinh của trời".
"Tướng giặc bị cầm tù như hổ đói quấy đuôi xin tha mạng
Thần vũ chẳng giết hại thể lòng trời ta mở hiếu sinh"
hay:
"Thần vũ vai lớn, không muốn chém ai, giết ai
Đại đức ân to, chỉ mong mỏi người được sống
Nghĩ đến kế lâu dài của quốc gia, tha sống cho hàng binh mười vạn
Sửa sang tình hoà hảo giữa hai nước, dập tắt hoạ chiến tranh muôn đời.
Bảo toàn lấy nước ta hơn trên hết
Bảo đảm cho dân mình an ninh..."
Tư tưởng tha cho giặc thể hiện đức độ, lòng nhân đạo của Nguyễn Trãi cũng như nhân dân sẵn sàng tha thứ cho kẻ lẫm lỡ. Tư tưởng ấy kế thừa từ truyền thống nhân đạo, nhân nghĩa của dân tộc "đánh kẻ chạy đi không ai đánh kẻ chạy lại" nay được kế thừa, phát huy tha cho kẻ địch khi kế cùng kiệt lực, bó giáo chịu hàng.
Lòng nhân đạo ấy được thể hiện rõ nhất trong lần nghĩa quân vây thành Đông quan nhiều lần tướng lĩnh xin xung trận "làm cỏ" giặc Minh trong thành nhưng Nguyễn Trãi chủ trương không làm như vậy bởi khi giao tranh thì không thể can qua chết chóc. Trên thế thắng thì nghĩa quân Lam Sơn có thể hoàn toàn "làm cỏ" quân giặc, nhưng Nguyễn Trãi đã không làm với mục tiêu cuối cùng là đánh đuổi quân thù là độc lập cho dân tộc khi kết thúc chiến tranh thì không còn thù hằn dân tộc, không còn cái uất hận cái sĩ diện của nước lớn bị thua trận, để tình hoà giữa hai nước được duy trì bền vững dài lâu. Cho nên ông cũng như Lê Lợi chủ trương tha cho hàng binh giặc. Sách Đại Việt sử ký văn thư chép đoạn Vương Thông, Sơn Thọ mang quân ra hàng thành Đông Quan 10/12/1427 như sau: "lúc bấy giờ người trong nước vì đã chịu đựng quá nhiều đau khổ cực do tội ác của giặc gây ra nên kéo nhau đến xin Lê Lợi giết hết lũ giặc hàng binh giặc cho thoả lòng căm giận nhưng nhà vua trả lời: "phục thù báo oán là chuyện thường tình của con người ta nhưng không thích giết người mới là tâm của bậc vương gia và lại người ta đã hàng mà mình lại đem giết đi thì thật là không có gì hết biết hơn nữa. Huống là muốn cho hả cái giận trong một lúc mà lại mang tiếng là "sát hàng" trong muôn đời thì sao bằng để sống hàng vạn mạng người mà "dứt hết chiến tranh muôn đời về sau cho hai nước "sử sách chép lại, nghìn thủa lưu thơm hà chẳng phải vẻ vang hay sao?". Hành động tha cho hàng binh đó thể hiện tầm nhìn xa trông rộng, tầm cao trí tuệ muốn xây dựng đất nước thái bình thịnh vượng trong tình hoà hữu bền lâu, đất nước muôn thuở vẳng ân vàng, thể hiện trách nhiệm cao cả của Nguyễn Trãi với nhân dân với đất nước "lo trước điều thiên hạ lo".
Giặc hàng mà không giết mà còn tạo điều kiện cho chúng về nước thuận lợi:
"Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền
ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc
Vương Thông, Mã Anh phát cho vài nghìn cỗ ngựa
về đến nước mà vẫn tim đập chân run"
Chúng ta thấy tư tưởng ấy của Lê Lợi cũng là của Nguyễn Trãi. Tư tưởng nhân đạo ấy còn được mở rộng ra đến những kẻ lầm đường lạc lối chót phạm tội trộm cắp, ông đã tâu xin tha chém bảy tên ăn trộm vì liền lúc giết bảy mạng người thì thật là bất nghĩa mà muốn cải hoá họ. Đó chính là lòng thương người, sự khoan dung độ lượng ấy đã cảm hóa được kẻ lầm đường, theo địch ra hàng. Với kẻ theo giặc này nay theo hàng thì ông chủ trương "khoan hồng" cứu với họ ông nói "nếu quả tôi có bụng muốn hại các ngài thì không cách nào thoát đâu" nhưng ông muốn họ cải tà quy chính để "cả nhà lớn bé đều được bình yên vô sự..."
Về lý, những kẻ theo địch, những tên phạm tội, những người trộm cắp, kẻ địch cướp nước... chiếu theo luật nước thì phải trị tội nặng. Dưới thời phong kiến người ta đã từng sử trí như thế, lịch sử cho thấy thời Xuân Thu Chiến Quốc bên Trung Quốc đã từng có hiện tượng kẻ chiến thắng đã "làm cỏ" cả một thành bang giết một lúc mấy chục vạn người, Nguyễn Trãi biết điều đó nhưng ông không tán thành với chủ trương đó.
Tư tưởng tha hàng, nhân đạo của Nguyễn Trãi thời kì đó đã không được nhiều người tán hành nên đã bị họ ra sức đả kích, xuyên tạc, thậm chí còn quy cho ông những tội lỗi. Nhưng ông sãn sàng vượt qua vì ông tin ở nghĩa lớn, tin ở thế đi lên của đổi mới, ở sức mạnh của lẽ phải, vừa chân lý của lòng nhân đạo và thực tế đã chứng minh đường lối sách lược đó hoàn toàn đúng đắn.
Yêu hoà bình là nét đặc sắc trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Nó được thể hiện trong việc Nguyễn Trãi lên án chiến tranh xâm lược, chiến tranh phi nghĩa ghê tởm. Chiến tranh là nguy hiểm, nó hại đến sinh mạng nhiều người "Đồ binh là thứ hung bạo, đánh nhau là việc nguy hiểm, việc hưng thịnh của một nước hay bại vong vủa một triều đại, nhân dân sống hay chết đều liên quan đến điều đó" .
Nhưng thực tế ông lại dấy binh, kiên trì cuộc chiến tranh, điều này không hề mâu thuẫn với tư tưởng hoà bình hoà hiếu không thích chiến tranh của ông. Vì để nước được độc lập, dân được tự do thì không còn con đương nào khác là lấy chiến tranh chính nghĩa chống lại chiến tranh phi nghĩa và cho rằng "đồ binh là thứ hung bạo, đánh nhau là việc nguy hiểm, thành nhân bất đắc dĩ mới dùng đến" . Tiến hành chiến tranh là: "Binh cốt để bảo vệ dân, không phải là để hại dân, dẹp yên để không phải giết, không phải là để giết nhiều người, cho nên có câu rằng: "binh bất đắc phải dùng". Nguyễn Trãi phản đối chiến tranh phi nghĩa, ca ngợi đề cao chiến tranh chính nghĩa chống xâm lược.
Chính vì vậy Nguyễn Trãi luôn luôn mơ ước tới hoà bình, cho nhân dân cả hai nước. "Đại nhân nếu có lòng thương mà nghe lời tôi (lui quân) thì không những may riêng cho một địa phương Giao Chỉ mà cũng là may chung cho thiên hạ nhân dân ...". Cho nên ông kết thúc chiến tranh bằng hoà hiếu để tạo cho được nền hoà bình bền vững, không vì chiến thắng mà trả thù cho thoả chí, không gây thêm thù oán để gây hằn về sau.
Nguyễn Trãi đã vươn đến đỉnh cao của tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa , đứng trên lập trường vì hạnh phúc của dân, vì hoà bình của đất nước mà thực hiện chủ nghĩa nhân đạo, phấn đấu cho hoà bình. Nhân đạo và hoà bình trở thành động lực là nguồn tư tưởng cổ vũ mạnh mẽ cho mọi hoạt động vì con người. Lòng nhân đạo và tình yêu hoà bình của Nguyễn Trãi là tấm gương sáng cho đời sau học hỏi, noi theo và phát huy.
4. Quan điểm về đường lối trị nước
Kết thúc chiến tranh, đất nước được thái bình, Nguyễn Trãi cùng Lê Lợi bắt tay vào xây dựng một xã hội mới sao cho nhân dân no đủ, trên thì vua sáng tôi hiền, dưới thì không còn tiếng oán giận, thở than. Ông nói: "Lòng thành muốn cho nhân dân nghỉ ngơi, văn trị cuối cùng phải đi đến thái bình" hay:
"Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn
Dường ấy ta đã phỉ sở nguyền" .
Nhưng làm thế nào để đi đến một xã hội thái bình, Nguyễn Trãi chủ trương "hoà". Hoà ở đây là hoà hiếu, hài hoà, giải quyết các mối quan hệ lợi ích xã hội một cách mềm dẻo có nguyên tắc. Ông nói: "Ngày nay từ các đại thần tổng quản đến các đội trưởng, cùng các cơ quan ở viện, sảnh, cục, phàm có người có chức vụ coi quan trị dân đều phải theo phép công bằng, làm việc cần mẫn, thờ vua hết trung, đối dân thì hài hoà, bỏ thói tham ô, sửa trì trệ lười biếng".
"Ôi! cầm sắt không phải đổi điệu thay dây cho đúng". Ông chủ trương "hoà" vì ông quan niệm xã hội vận động như các nhạc khí của dàn nhạc cùng hợp xướng. ở đó âm thanh có hài hoà thì mới tạo được khoái cảm giống như thể địa vị xã hội và lợi ích xã hội có hài hoà thì trên dưới mới yên, ông nói: "Kể ra thời loạn lạc dùng võ, thời bình dụng văn nay đúng là lúc nên làm nhạc lễ. Song không có gốc thì không đứng được, không có văn thì không hành được. Hoà là gốc của nhạc, thanh là văn của nhạc. Thần vâng chiếu làm nhạc không thể không hết lòng nhưng vì học thuật nông cạn sợ rằng khoảng thanh âm còn khó hài hoà, xin bệ hạ nuôi yên dân chúng, để cho nơi làng mạc không còn tiếng oán hận sầu than, đó là không mất cái gốc của nhạc vậy". Chủ trương "hoà" làm cho xã hội cân đối hài hoà giữa các quyền lợi, các lợi ích xã hội bởi vì có ổn định thì lòng người mới phấn khởi xã hội mới phát triển được. Đó là quan điểm rất tích cực của Nguyễn Trãi nhưng đáng tiếc rằng tư tưởng này chưa được xã hội hiện đại đáng là bao.
II. Những giá trị hạn chế trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi và sự vận dụng tư tưởng nhân nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
1. Những giá trị tích cực
Tư tưởng chính trị nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã đạt tới tầm cao của thời đại lúc bấy giờ, nó kế thừa những giá trị nhân đạo, nhân văn tốt đẹp của lịch sử dân tộc và có ảnh hưởng rất lớn đến ngày nay.
Những mặt tích cực của tư tưởng nhân nghĩa là đã lấy dân làm gốc đánh giá đúng vị trí vai trò sức mạng của quần chúng nhân dân trong xã hội và trong công cuộc dựng nước và giữ nước, nó đã thoát ra khỏi khuôn khổ phong kiến, vượt lên những nhận thức về dân của nhà nước phong kiến đương thời. Cũng như những nhà yêu nước yêu dân trước ông, Nguyễn Trãi không chỉ yêu dân vô hạn mà còn tôn trọng nhân dân, thực sự quý con người và sức dân, ông rất mực đề cao công lao của nhân dân chiến đấu, xây dựng:
"ở yên thì nhớ lòng xung đột
Ân lộc đều do kẻ cấy cày".
Được sống yên ổn thì phải nhớ người chiến đấu, có miếng ăn bổng lộc mà hưởng thì phải ơn người lao động. Trong xã hội phong kiến người ta thường nói "ơn vua, ân chúa". Được sống yên ổn, được bổng lộc là nhờ vua chứ mấy ai nói rằng nhờ dân như Nguyễn Trãi đâu? Cái nhìn của Nguyễn Trãi về vai trò vị trí của người dân hoàn toàn khác với cái nhìn của xã hội phong kiến. Ông đưa ra quan niệm về sự bình đẳng xã hội, con người với con người là bình đẳng không đặc quyền đặc lợi, trong xã hội kẻ làm vua, quan cũng chỉ là sự phân công xã hội mà thôi và vận mệnh của họ, ngai vàng của họ cũng dựng họ lên hay dấn họ xuống cũng là dân. "Chở thuyền hay lật thuyền đều là dân". Sự nhận thức đúng đắn về vị trí vai trò của dân Nguyễn Trãi đã xây dựng một tư tưởng dân chủ và ý thức dân chủ mạnh mẽ, cả cuộc đời mình khi làm quan cũng như khi ở ẩn, Nguyễn Trãi vẫn yêu dân, lo cho dân, gần dân tôn trọng và đề cao công lao địa vị của nhân dân.
Trong lịch sử nước nhà có những người tận trung với nước nhưng tận hiếu với dân thì có những hạn chế. Cho nên tận trung với nước, tận hiếu với dân như Nguyễn Trãi là đáng quý vô cùng.
Nguyễn Trãi là người xuất thân từ Nho giáo thấm nhuần quan điểm của Nho giáo về "Trung" va "Hiếu" ... nhưng tư tưởng của ông về "Trung" "Hiếu" là trung với nước hiếu với dân, "Trung" "Hiếu" với dân với nước là quan điểm mới của tư tưởng chính trị Việt Nam thời đó. Nguyễn Trãi đã không đứng trên lập trường giai cấp mà đứng trên lập trường của nhân dân của đất nước. Cho nên Nguyễn Trãi luôn luôn vì dân đấu tranh, bảo vệ lẽ phải công lý và sự thật, không khuất phục giàu sang phú quý, đề cao sự thanh liêm trong sạch, vì dân vì nước... Suy cho cùng tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi cũng chính là tư tưởng lấy dân làm gốc của Đảng, Nhà nước ta hiện nay.
2. Bên cạnh đó những giá trị đó, tư tưởng chính trị của Nguyễn Trãi cũng không tránh khỏi những hạn chế do:
Nguyễn Trãi là trí thức nho học, chịu sự chi phối của hệ tư tưởng Nho giáo. Nguyễn Trãi luôn đề cao tư tưởng trung quân, bảo vệ dòng họ chính thống mặc dù cũng nhận ra những hạn chế, sự thối nát của nó. Xét ở một góc độ nào đó Nguyễn Trãi đứng trên lập trường giai cấp thống trị bảo vệ quyền lợi cho giai cấp ấy, mặc dù biết nó mục nát, có nhiều bất công nhưng vẫn phải tôn thờ phục dịch theo.
Nguyễn Trãi chưa tìm ra được lối thoát cho xã hội vẫn phục tùng cho xã hội cũ. Nguyễn Trãi đưa ra tư tưởng dân chủ, phát huy quyền lợi nhân dân nhưng lại bế tắc trong cách thức thực hiện quyền lợi ấy.
Sở dĩ có những hạn chế trên là do các thế lực hắc ám trong triều đình còn quá nhiều. Tư tưởng tiến bộ của Nguyễn Trãi đưa ra vào thời kì ấy chưa phù hợp với khả năng nhận thức của triều đình phong kiến cho nên Nguyễn Trãi đành chấp nhận lui vể ở ẩn, sống thanh nhàn mà thôi. Những hạn chế đó do hạn chế của thời đại, còn tư tưởng của Nguyễn Trãi mãi mãi là điểm sáng trong lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam.
3. Vận dụng tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay
Ngày nay công cuộc xây dựng và kiến thiết đất nước, những quan điểm nhân nghĩa của Nguyễn Trãi vẫn còn giữ nguyên giá trị. Tư tưởng yêu dân thương dân của Nguyễn Trãi được Đảng ta phát huy. Đảng ta lấy dân làm gốc xây dựng một chế độ xã hội, một chế độ mà nhân dân được quan tâm, được chú trọng phát triển, nhân dân được tham gia các hoạt động chính trị xã hội, phát huy quyền làm chủ của mình.
Trong quá trình lãnh đạo Đảng, Nhà nước quan tâm đúng mức đời sống của nhân dân, từ chuyện phát triển kinh tế, chính trị... đến chuyện cơm cà muối mắm của dân, phải lo cho dân. Hễ còn người dân Việt Nam nào còn đau thương đói rách thì Đảng, Nhà nước có lỗi với dân.
Tư tưởng xây dựng một chế độ mới dân chủ, bình đẳng của Nguyễn Trãi hơn bao giờ hết đươc phát huy cao nhất trong điều kiện hiện tại, nhân dân được quyền tham gia vào mọi hoạt động xây dựng đất nước.
Chúng ta xây dựng một nhà nước vì dân, một bộ máy nhà nước trong sạch không còn tiêu cực, không gây tham ô phiền hà quẫy nhiễu nhân dân.
Xác định đúng vai trò của dân Đảng không ngừng quan tâm tới nhân dân, mọi kế sách của Đảng, Nhà nước đều phải đem lại lợi ích cho dân, vì dân phục vụ. Chăm lo phát triển y tế, văn hoá, giáo dục, kinh tế, Khoa học- kĩ thuật... tất cả đều vì nhân dân, phục vụ nhân dân.
Tóm lại đúc rút kinh nghiệm từ tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi cùng với hệ tư tưởng nhân đạo Mác-lênin, Đảng ta trong quá trình đấu tranh xây dựng đất nước phát huy mạnh mẽ tính dân chủ, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, chăm lo đời sống nhân dân lấy dân làm gốc là kế sách bền vững để xây dựng đất nước hiện nay.
C. Kết luận
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam Nguyễn Trãi có vai trò và vị trí to lớn- một nhân vật vĩ đại về nhiều mặt. Là người có công lớn trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đánh quân xâm lược danh độc lập tự chủ cho đất nước cũng như trong công cuộc xây dựng kiến thiết đất nứơc buổi đầu thái bình triều Lê. Ông là một trong những người đặt nền móng xây dựng triều phong kiến tập quyền phát triển đỉnh cao của lịch sử phong kiến Việt Nam. Ông đã đề xuất nhiều tư tưởng nhằm xây dựng triều đại ấy hoàn thiện, với những tư tưởng về các lĩnh vực chính trị, quân sự ngoại giao... Ông đạt đến tầm cao của thời đại; bên cạnh đó là các lĩnh vực địa lý, pháp luật, âm nhạc ông đều dành cho mình một vị trí xứng đáng. Ngay từ khi còn sống ông được người đương thời xem là "kinh bang hoa quốc, vô tiền cớ" (dựng nước làm vẻ vang đất nước không ai được như ông).
"Nguyễn Trãi là một nhà tư tưởng lớn, một nhà hoạt động chính trị lỗi lạc là con người sáng tạo, con người hành động. Tâm hồn và trí tuệ rộng lớn của ông tiêu biểu cho tình cảm và suy nghĩ của một thời đại lịch sử đầy gian nan thử thách, đầy kì tích oanh liệt hào hùng". Nguyễn Trãi thật là một nhân vật lịch sử vĩ đại.
Tư tưởng chính trị nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã để lại cho đời sau những kiến thức phong phú. Ông cùng với Lê Lợi với đường lối "nhân tâm, nhân nghĩa" với chủ trương "hoà bình hoà hiếu", những quan điểm của ông về chiến tranh, hoà bình đặc biệt là về nhân nghĩa đều nhằm xây dựng một nước "vua sáng, tôi hiền", muôn dân ấm no... Cái quý giá trong tư tưởng của Nguyễn Trãi là tấm lòng yêu nước thương dân tha thiết, chiến đấu trừ bạo đất tranh cho hoà bình cũng đều vì nhân dân. Lấy nhân dân làm trung tâm của xã hội, quốc gia, dân tộc, lấy nhân dân làm đối tượng phục vụ, lấy sức mạng của nhân dân làm lực lượng cơ bản để quyết định mọi thắng lợi của cuộc kháng chiến, bảo vệ đất nước, bảo vệ cuộc sống hạnh phúc của nhân dân.
Hơn ai hết Nguyễn Trãi hiểu rằng nhân dân có vai trò quan trọng nhất trong xã hội: "Trong bầu trời không quý bằng dân". Ông quan niệm rằng nhân dân là người làm ra tất cả, ông thấy rõ sức mạnh cứu nước của dân, bởi cứu nước là dân, dựng lên triều đại, đánh đổ triều đại kia là do dân quyết định cho nên trong tư tưởng chính trị của mình ông coi trọng dân chủ, phát huy dân chủ để vua tôi cùng bàn, muôn dân cùng làm, cùng góp sức xây dựng đất nước. Cả cuộc đời Nguyễn Trãi đấu tranh cho nhân dân, cho đất nước, yêu nước yêu dân phải đấu tranh cho độc lập thống nhất tổ quốc, phải trừ độc trừ tham, trừ bạo ngược cho nhân dân, phải làm cho nhân dân khỏi lầm than cực khổ, và dồn lại nhân đạo bao la tha chết cho hàng binh giặc, giữ tình hoà hảo dài lâu.
Mọi hoạt động chính trị của ông đều hướng vào chính nghĩa và nhân dân. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là khái quát nhất, tiêu biểu nhất, chủ đạo nhất trong tư tưởng chính trị của ông. Nhân nghĩa là yêu dân là giữ cho thế nước yên.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi thể hiện ra bằng hành động, là sự kết hợp tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc coi trọng sức dân, dựa vào dân, vì dân, lấy dân làm gốc cho mọi hoạt động chính trị đồng thời mang lại hoà bình hoà hiếu dân tộc cho đất nước cho nhân dân, giải quyết mọi vấn đề vì quốc kế dân sinh. Tư tưởng đó mang tính dân chủ cao, rất gần với tư tưởng hiện đại ngày nay.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi sống mãi cùng chúng ta hôm nay và mai sau. Ngày nay kế thừa truyền thông nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chúng ta xây dựng một chế độ mơi mang lại ấm no hạnh phúc và công bằng cho nhân dân, để cao mọi giá trị của con người, xây dựng một xã hội không có áp bức, không có bất công, mọi người được hưởng hoà bình hạnh phúc có mọi điều kiện để phát huy sức mình. Chúng ta từng bước thực hiện tâm nguyện của Nguyễn Trãi cùng tổ tiên ngàn đời của Đảng, của Bác Hồ kính yêu là xây dựng một xã hội ấm no, giàu mạnh, công bằng, văn minh, dân chủ.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Lương Bích: Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước, Nxb Quân đội nhân dân. H, 1973
2. Quỳnh Cư: Danh nhân đất Việt, Nxb Thanh niên. H,1999
3. Phạm Văn Đồng- Võ Nguyên Giáp: Nguyễn Trãi- Anh hùng giải phóng dân tộc- Nhà văn hoá kiệt xuất, Nxb Sự thật, H, 1982
4. Trần Văn Giàu: Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb Tp. Hồ Chí Minh
5. Ngô Sĩ Liên: Đại Việt sử kí toàn thư
6. Nguyễn Trãi: Tài liệu tham khảo của ban tổ chức kỉ niệm 600 năm ngày sinh Nguyễn Trãi - Cục Thông tin cổ động phát hành, H,1980
7. Khoa chính trị học, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền: Lịch sử tư tưởng chính trị, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2004
8. Vũ Ngọc Pha: Tài liệu tham khảo lịch sử tư tưởng Việt Nam dùng trong Phân viện Báo chí và Tuyên truyền (Lưu hành nội bộ)
9. Thơ văn Nguyễn Trãi - Nxb Giáo dục, H, 1980
Có thể bạn muốn biết?
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét