Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ 1986 – 2004
Chủ Nhật, 13 tháng 11, 2016
Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ 1986 – 2004
Mở đầu
Đối ngoại là một lĩnh vực rất cơ bản của một quốc gia, là chiếc cầu nối giữa dân tộc và nhân loại, giữa đất nước và thế giới. Hoạt động đối ngoại không chỉ thể hiện ở tài năng, vị thế của một quốc gia trên trường quốc tế, mà còn hàm chứa trong đó cả yếu tố văn hóa truyền thống của dân tộc.
Ngày nay, trước xu thế khách quan của toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ và nhanh chóng, hoạt động đối ngoại ngày càng được mở rộng, vai trò và vị trí của nó càng trở nên quan trọng trong chiến lược quan hệ quốc tế giữa các quốc gia. Không có một quốc gia nào không quan tâm đến chiến lược đối ngoại.
Đối với nước ta, trong thời chiến cũng như trong thời bình, Đảng ta đều coi trọng công tác đối ngoại, xem chính sách đối ngoại là một bộ phận không thể thiếu trong đường lối cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986), Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, trong đó có đổi mới đường lối đối ngoại của Đảng, công tác đối ngoại của Việt Nam đã mở ra một bước ngoặt mới, hoạt động đối ngoại được tăng cường và mở rộng hơn. Với đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng, hoạt động đối ngoại của Việt Nam có hiệu quả hơn, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với nhiều nước trên thế giới, bạn bè thế giới hiểu rõ hơn về đất nước và con người Việt Nam. Vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.
Để góp phần vào việc nghiên cứu đường lối đối ngoại của Đảng nói chung, trong phạm vi tiểu luận này sẽ đi sâu nghiên cứu: Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ 1986 – 2004.
Nội dung
I. Đặc điểm tình hình thế giới và trong nước tác động đến việc đổi mới đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam.
1- Đặc điểm tình hình thế giới:
Từ giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp và chứa đựng nhiều yếu tố biến động khó lường. Đặc biệt, sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã tác động mạnh mẽ đến sự thay đổi cục diện thế giới và quan hệ quốc tế. Trật tự thế giới mới được hình thành với xu hướng đa cực hóa chính trị thay cho trật tự thế giới hai cực đối lập (hai phe xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa) do Liên Xô và Mỹ đứng đầu bị tan rã. Thế giới xuất hiện những đặc điểm mới đòi hỏi các quốc gia, nhất là các nước vừa và nhỏ phải điều chỉnh chính sách đối ngoại để tìm kiếm con đường phát triển và hội nhập quốc tế có lợi nhất cho quốc gia, dân tộc mình. Những đặc điểm mới của tình hình thế giới, đó là:
Thứ nhất, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ, có bước tiến nhảy vọt đã tác động đến tất cả các quốc gia, dân tộc. Với những bước tiến khổng lồ của điện tử, tin học, mạng Internet trong lĩnh vực công nghệ thông tin, sự đột biến về gien trong công nghệ sinh học, những thành tựu của công nghệ vật liệu mới… đã đưa loài người từ nền văn minh công nghiệp chuyển sang thời kỳ mới của nền văn minh tin học. Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại trên thế giới đã tạo ra thời cơ và thách thức đối với mỗi quốc gia trong việc tiếp cận, áp dụng những thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại để phát triển vươn lên, hay bị tụt hậu về kinh tế.
Thứ hai, toàn càu hóa kinh tế là một xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh.
Xu thế toàn cầu hóa hình thành từ đầu thế kỷ XX và được đẩy mạnh trong hai thập kỷ cuối của thế kỷ này. Chắc chắn nó sẽ tiếp tục diễn ra mạnh mẽ hơn nữa trong thế kỷ XXI. Toàn cầu hóa là một quá trình mà thông qua đó thị trường và sản xuất ở nhiều nước khác nhau đang ngày càng trở nên phụ thuộc lẫn nhau.
Toàn cầu hóa là hệ quả tất yếu của sự phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đặc biệt là sự bùng nổ của công nghệ thông tin. Toàn cầu hóa trước hết là sự biểu hiện của xã hội hóa cao độ lực lượng sản xuất. Toàn cầu hóa đồng thời là sự phát triển tất yếu theo chiều rộng và chiều sâu của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, mặc dù không phải tất cả các nước tham gia toàn cầu hóa đều là những nước tư bản. Do vậy, chấn tâm của toàn cầu hóa là các nước tư bản phát triển, xứ sở của phần lớn các công ty xuyên quốc gia trên thế giới.
Mặt khác, để tồn tại và phát triển, mỗi quốc gia đều quan tâm đến lợi ích dân tộc mình và kịp thời nắm bắt chiều hướng phát triển của thế giới trong bối cảnh kết thúc chiến tranh lạnh, không còn hai phe (xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa ) trong quan hệ quốc tế. Xu thế hợp tác và đấu tranh vì mục tiêu hòa bình, ổn định và phát triển trong quan hệ quốc tế được đặt ra. Các quốc gia đều coi chiến lược mở cửa với bên ngoài là một trong những động lực chủ yếu để phát triển kinh tế. Nhu cầu liên kết, hợp tác để phát triển ngày càng gia tăng. Điều đó đã thúc đẩy nhanh chóng và mạnh mẽ quá trình toàn cầu hóa.
Tuy nhiên, toàn cầu hóa là một quá trình phức tạp đầy mâu thuẩn, chứa đựng cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực, cả thời cơ và thách thức đối với các quốc gia, trong đó có các nước đang phát triển, chậm phát triển chịu nhiều thách thức gay gắt hơn cả.
Toàn cầu hóa có tác dụng tích cực trong việc thúc đẩy xu thế hòa bình, hợp tác để phát triển, tháo dỡ các rào cản đối với nền kinh tế thị trường, tự do hóa thương mại, làm cho giao lưu kinh tế diễn ra mạnh mẽ nhanh chóng. Toàn cầu hóa tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt buộc các nước phải có tư duy năng động, có cơ chế quản lý, bộ máy quản lý hoạt động có hiệu quả. Toàn cầu hóa và cách mạng thông tin tạo điều kiện thuận lợi để các quốc gia tiếp cận nhanh chóng những thành tựu văn hoá, khoa học, công nghệ của loài người, đồng thời có điều kiện đóng góp tích cực vào sự phát triển của văn minh nhân loại. Toàn cầu hóa còn làm cho các quốc gia quan tâm hơn các vấn đề toàn cầu, đòi hỏi phải có sự liên kết, hợp tác giữa các quốc gia không phân biệt chế độ chính trị để giải quyết. Nó cũng tạo ra một chủ thể quốc tế mới chống mặt trái của toàn cầu hóa và lôi kéo đông đảo các quốc gia, dân tộc chống lại sự phân hóa giàu nghèo, chống sự áp đặt phi lý của các cường quốc kinh tế và các công ty xuyên quốc gia.
Song, bên cạnh những tác dụng tích cực, toàn cầu hóa đã tạo ra những thành tựu và nguy cơ không nhỏ đối với các nước, nhất là các nước đang phát triển. Toàn cầu hóa làm tăng tính phụ thuộc của các nước đang phát triển vào các nước lớn về vốn, công nghệ và thị trường. Toàn cầu hóa kinh tế có tác động trực tiếp đến lĩnh vực chính trị, đến an ninh quốc gia. Nó tạo ra nguy cơ các nước đang phát triển bị lệ thuộc về kinh tế, từ đó sẽ dẫn đến lệ thuộc về chính trị, làm nguy hại đến chủ quyền và an ninh quốc gia.
Nghiêm trọng nhất trong các vấn đề toàn cầu là nguy cơ khủng hoảng toàn cầu về môi trường, sinh thái đe doạ sự sống trên trái đất đang đến gần. Hiểm họa môi trường gia tăng với sự bùng nổ về dân số đang là vấn đề xã hội của toàn nhân loại chứ không phải chỉ một quốc gia nào.
Trước xu thế toàn cầu hóa hiện nay, ở các nước đang phát triển diễn ra ba xu hướng: một là, cường điệu hóa mặt tích cực của toàn cầu hóa, coi nó là liều thuôc vạn năng cho sự phát triển của quốc gia. Hai là, chỉ nhìn thấy mặt tiêu cực, khó khăn, thách thức, từ đó tìm cách né tránh, quay lưng lại với toàn cầu hóa. Ba là, chủ động hội nhập trên cơ sở nhận thức sâu sắc những tác động tích cực của toàn cầu hóa cùng những tác động tiêu cực của nó để tìm cách hạn chế.
Thực tế cho thấy, các nước muốn tránh khỏi nguy cơ bị biệt lập, tụt hậu, kém phát triển thì phải tích cực, chủ động tham gia hội nhập khu vực và quốc tế, đồng thời phải có bản lĩnh cân nhắc một cách cẩn trọng các yếu tố bất lợi để vượt qua.
Thứ ba, tình hình thế giới còn nhiều biến động, các cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc vẫn liên tiếp xãy ra. Tuy có giảm hơn so với thời kỳ chiến tranh lạnh (nếu như trong thời kỳ chiến tranh lạnh mỗi năm trung bình có 43 cuộc xung đột trên toàn thế giới thì từ khi kết thúc chiến tranh lạnh mỗi năm trên thế giới có khoảng 13 cuộc xung đột), nhưng các cuộc xung đột về dân tộc, về sắc tộc vẫn tiếp tục diễn ra mang tính chất gay gắt, quyết liệt và sâu sắc hơn. Các nước lớn lợi dụng cái gọi là “tự do, dân chủ, nhân quyền”, đứng đầu là Mỹ đã trực tiếp hoặc gián tiếp can thiệp vào công việc nội bộ của nhiều quốc gia. Tình trạng bạo loạn lật đổ vẫn là mối đe dọa của các quốc gia, dân tộc. Nguy cơ bùng nổ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi, song chủ nghĩa đế quốc vẫn chưa từ bỏ chạy đua vũ trang.
Tuy nhiên, sau chiến tranh lạnh, các nước đã đổi mới tư duy về quan niệm sức mạnh và vị thế của quốc gia. Thay thế cách đánh giá cũ, chủ yếu dựa vào sức mạnh quân sự là chính bằng cách đánh giá tổng hợp, toàn diện hơn, trong đó nhấn mạnh sức mạnh kinh tế và khoa học, công nghệ là yếu tố hàng đầu. Từ đó, đã biến cuộc chạy đua vũ trang giữa các quốc gia thành cuộc cạnh tranh về kinh tế, hình thành xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển giữa các quốc gia.
Thứ tư, các nước lớn đóng vai trò chi phối các mối quan hệ trên thế giới. Quan hệ giữa các nước lớn tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của quan hệ quốc tế đương đại. Đó là các cường quốc về kinh tế, khoa học – công nghệ, quân sự và là ủy viên thường trực của Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc, bao gồm các nước: Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc, Đức, Italia, Nhật Bản, ấn Độ. Các nước này có một số điểm chung trong chống khủng bố, chống sản xuất vũ khí hủy diệt, chống đói nghèo, bệnh tật và suy thoái kinh tế; nhưng cũng có những điểm bất đồng trong quan hệ kinh tế thương mại, bảo vệ môi trường sinh thái… Các nước vừa và nhỏ quan hệ với các nước lớn sẽ mở ra triển vọng quan hệ với các nước khác trên thế giới.
Với những đặc điểm mới của tình hình thế giới đòi hỏi các quốc gia phải hết sức tỉnh táo khi lựa chọn con đường mở cửa, hội nhập quốc tế. Phải bảo đảm những vấn đề có tính nguyên tắc, có tính chiến lược, song lại phải hết sức mềm dẻo, uyển chuyển trong sách lược khi xây dựng đường lối đối ngoại đổi mới vì một thế giới hòa bình, vì sự ổn định và phát triển bền vững.
2- Đặc điểm tình hình trong nước:
Sau khi đất nước được hòa bình thống nhất, cả nước tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, định hướng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, thì các thế lực thù địch, đứng đầu là đế quốc Mỹ thực hiện việc bao vây, cấm vận đối với nước ta. Khi sự kiện Campuchia xảy ra, chúng lợi dụng cái gọi là “vấn đề Campuchia” để cô lập Việt Nam với thế giới và khu vực. Một số nước vốn có quan hệ với Việt Nam từ trước cũng ngừng quan hệ với Việt Nam. Trong khi đó, bọn phản động lưu vong chạy ra nước ngoài âm mưu câu kết với các thế lực đế quốc thực hiện chủ trương “chuyển lửa” về quê nhà, kích động chia rẽ các dân tộc, tôn giáo, xung đột vũ trang, gây mất ổn định tình hình chính trị – xã hội.
Mặt khác, từ sau năm 1975, do hậu quả chiến tranh chống Pháp và Mỹ rất nặng nề chưa khắc phục được, lại xảy ra hai cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam và phía Bắc. Cùng với khuyết điểm chủ quan do duy trì quá lâu cơ chế kế hoạch hóa, tập trung quan liêu bao cấp đã làm cho đất nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội trầm trọng. Việt Nam đang đứng trước nguy cơ tụt hậu ngày càng xa so với thế giới văn minh. Trong khi nhân loại đã chuyển sang thời đại của nền văn minh tri thức thì Việt Nam vẫn còn ở trong thời kỳ tiền công nghiệp hoá, hiện đại hoá (tức là chưa có công nghiệp hiện đại). Việt Nam vẫn là một nước có nền kinh tế phát triển thấp, tăng trưởng không ổn định, cơ sở hạ tầng và dịch vụ thấp kém, bình quân thu nhập quốc dân trên đầu người ở dạng các nước nghèo, trong khi các quốc gia cùng khu vực như Thái Lan, Brunây, Singapore, Indonesia… phát triển kinh tế rất nhanh.
Để phá vỡ thế bao vây cấm vận của chủ nghĩa đế quốc, tiến tới hội nhập quốc tế và khu vực, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội và tụt hậu xa hơn về kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giữ vững ổn định chính trị trong tình hình mới, một yêu cầu tất yếu khách quan và cấp bách được đặt ra là phải đổi mới toàn diện, trong đó có đổi mới đường lối đối ngoại của Đảng.
Phát huy truyền thống hòa bình, nhân ái, hữu nghị, hợp tác văn minh của nền ngoại giao Việt Nam và tư tưởng ngoại giao của Hồ Chí Minh thể hiện trong tuyên bố của Người: “Chính sách đối ngoại là thân thiện với tất cả các nước… mà không thù gì với nước nào” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 5, tr.169). Đảng ta chủ trương đổi mới đường lối đối ngoại là mở cửa, hội nhập vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
II. Nội dung đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ 1986 – 2004.
Đường lối đối ngoại là một bộ phận quan trọng, hợp thành đường lối chính trị của Đảng. Đường lối đối ngoại của Đảng nhằm khai thác tốt nhất các nhân tố quốc tế phuc vụ cho nhu cầu phát triển đất nước, đồng thời mở rộng và phát huy ảnh hưởng của dân tộc ta, đóng góp với cộng đồng quốc tế trong cuộc đấu tranh chung vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đảng ta coi đối ngoại là một mặt trận và hết sức quan tâm đến mặt trận này.
Từ việc nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trí của mặt trận đối ngoại, đặc biệt là đối ngoại trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã từ thực tiễn của công tác đối ngoại dần dần hoàn thiện đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) - Đại hội mở đầu thời kỳ đổi mới, Đảng ta chủ trương về đối ngoại là mở cửa và hội nhập quốc tế, quan hệ với tất cả các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và xu thế quốc tế, Đại hội đã phác họa những đặc điểm nổi bật của thời đại là cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật đang diễn ra mạnh mẽ, tạo thành bước phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất và đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa các lực lượng sản xuất. Cuộc cách mạng này là nhân tố cơ bản thúc đẩy sự hình thành thị trường thế giới, trong đó, hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa vì yêu cầu phát triển phải hợp tác với nhau trong trạng thái đấu tranh, cạnh tranh quyết liệt. Đại hội VI nhấn mạnh: Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực kinh tế có ý nghĩa chính trị ngày càng quan trọng đối với kết cục cuộc đấu tranh giữa hai hệ thống…, giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau, sự lựa chọn duy nhất đúng đắn là thi đua về kinh tế, về lối sống… và cuộc thi đua này chỉ có thể được thực hiện trong hoàn cảnh hòa bình được đảm bảo vững chắc.
Quan điểm trên đây của Đại hội VI thể hiện bước tiến mới về tư duy chính trị quốc tế của Đảng. Sự đổi mới tư duy này đã đặt cơ sở cho việc xây dựng chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước phù hợp hơn, thích ứng hơn với tình hình thế giới.
Đại hội VI nhận thức rõ sự cần thiết phải đổi mới phương cách tập hợp lực lượng, một trong những bài học kinh nghiệm mà Đại hội rút ra là “phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới” và “xu thế mở rộng phân công, hợp tác giữa các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế – xã hội khác nhau, cũng là những điều kiện rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta”. Những nhận thức mới này đã đặt nền móng cho việc hình thành các chủ trương mở rộng quan hệ quốc tế của Đảng.
Về nội dung của chính sách đối ngoại, Đảng ta xác định: nội dung cơ bản của chính sách đối ngoại hiện nay là lấy kinh tế đối ngoại làm ưu tiên hàng đầu. Kinh tế đối ngoại có vai trò to lớn đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước như: góp phần tạo vốn; thúc đẩy quá trình đổi mới kỹ thuật – công nghệ theo hướng hiện đại hóa; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; tạo điều kiện khai thác tốt lợi thế so sánh của đất nước, thúc đẩy phát triển và tăng trưởng kinh tế – xã hội. Đại hội VI nhấn mạnh: Nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế trong chặng đường đầu tiên cũng như sự nghiệp phát triển khoa học – kỹ thuật và công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của nước ta tiến hành nhanh hay chậm, điều đó phụ thuộc một phần quan trọng vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Từ đó, Đảng chủ trương: sử dụng tốt mọi khả năng mở rộng quan hệ thương mại, hợp tác kinh tế và khoa học, kỹ thuật với bên ngoài để phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Bước vào thời kỳ mới, Đảng ta đặt vấn đề cần phải có quan điểm mới về an ninh và phát triển kinh tế, phải xử lý mối quan hệ này cho phù hợp với thời đại. An ninh và phát triển kinh tế là hai mục tiêu cơ bản trong các mục tiêu của hoạt động đối ngoại. Hai mục tiêu này có mối quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại với nhau. Tuy nhiên trong từng điều kiện cụ thể, vị trí, vai trò của từng mục tiêu có thể thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng. Trong một thế giới mà sự hợp tác, liên kết về kinh tế, sự đan xen lợi ích và sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng gia tăng, thì vấn đề an ninh của một quốc gia phải gắn với an ninh khu vực, thậm chí an ninh của cả thế giới. Việc Việt Nam tham gia tích cực vào quá trình liên kết, hợp tác kinh tế khu vực và quốc tế sẽ là một bảo đảm quan trọng cho an ninh của Việt Nam. Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị (5/1988) về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới, đã chỉ ra những cơ hội và thách thức đối với cách mạng nước ta và khẳng định “lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế. Đó là nhân tố quyết định củng cố, giữ vững an ninh và độc lập… Cần phải có quan điểm mới về an ninh và phát triển trong thời đại ngày nay để khẳng định mạnh mẽ phương hướng ưu tiên tập trung cho sự nghiệp giữ vững hòa bình và phát triển kinh tế”. Nghị quyết còn chỉ rõ: “với một nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng vừa đủ mạnh cùng với sự mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế chúng ta sẽ càng có nhiều khả năng giữ vững độc lập và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội hơn”.
Trong tình hình mới, để tạo điều kiện và cơ hội giữ vững hòa bình, phát triển kinh tế, Nghị quyết 13 Bộ Chính trị xác định quan điểm: trong quan hệ quốc tế, chúng ta phải “thêm bạn, bớt thù”, ra sức tranh thủ các nước anh em bầu bạn và dư luận rộng rãi trên thế giới, phân hóa hàng ngũ đối phương, làm thất bại âm mưu bao vây, cô lập ta về kinh tế, chính trị; kiên quyết chủ động chuyển cuộc đấu tranh từ tình trạng đối đầu sang đối thoại, đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hòa bình; lợi dụng sự phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật và xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới để tranh thủ vị trí có lợi nhất trong phân công lao động quốc tế; kiên quyết mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, ra sức đa dạng hóa quan hệ.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (3/1989), tiếp tục quán triệt chủ trương mở rộng quan hệ quốc tế, tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế, chuyển mạnh hoạt động ngoại giao từ quan hệ chính trị là chủ yếu sang quan hệ chính trị – kinh tế, mở rộng quan hệ kinh tế, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (3/1990), coi việc mở rộng quan hệ đối ngoại theo phương châm “thêm bạn, bớt thù” là một trong những nhiệm vụ cấp bách và quán triệt không để các vấn đề cục bộ, tạm thời, thứ yếu cản trở việc thực hiện nhiệm vụ chiến lược của ta; nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, đoàn kết quốc tế phù hợp với tình hình mới; đa dạng hóa quan hệ quốc tế; đẩy lùi từng bước chính sách bao vây, cấm vận đối với nước ta.
Có thể nói, nội dung đổi mới tư duy về đối ngoại của Đảng ta được khởi xướng từ Đại hội VI, sau đó được Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị và các Nghị quyết tiếp theo của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương ( khóa VI ) phát triển, đã thể hiện rõ sự điều chỉnh chiến lược đối ngoại của nước ta trước tình hình mới. Sự điều chỉnh này đã đặt nền móng cho chiến lược đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước ta.
Vào đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp. Mô hình chủ nghĩa xã hội bị sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu; các thế lực đế quốc tăng cường sử dụng chiến lược "diễn biến hòa bình" chống phá nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Trước những thay đổi nhanh chóng của tình hình thế giới, Đảng ta nhấn mạnh yêu cầu của công tác đối ngoại là phải nhận thức kịp thời và dự báo được những diễn biến trong quan hệ quốc tế để có những chủ trương đối ngoại phù hợp.
Đáp ứng yêu cầu đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII cùa Đảng (6/1991) tiếp tục đổi mới tư duy đối ngoại và đề ra đường lối đối ngoại là đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ quốc tế. Theo quan điểm của Đảng ta, đa dạng hóa quan hệ có nghĩa là mở rộng quan hệ trên mọi lĩnh vực từ chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật đến các quan hệ về Nhà nước, về Đảng và các tổ chức đoàn thể xã hội. Đa phương hóa, có nghĩa là quan hệ với nhiều đối tượng khác nhau, với các tổ chức thuộc các xu hướng về chế độ - chính trị xã hội khác nhau, với các tổ chức phi chính phủ…
Tại Đại hội này, Đảng ta đã xác định: chỉ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí MInh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và của cách mạng Việt Nam. Thế l1 về đường lối đối ngoại, Đảng ta đã vận dụng tư tưởng ngoại hgiao của Hồ Chí Minh: "làm bạn với mọi nước dân chủ và không gây thù oán với ai" (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 5, trang 220). Tư tưởng "thêm bạn, bớt thù" được Đảng ta khẳng định một lần nữa. Hơn nữa, trong điều kiện mới, tư duy xác định "bạn, thù" theo tiêu chí củ (cùng phe là bạn, khác phe là thù) không còn phù hợp, mà đòi hỏi phải mềm dẻo hơn, linh hoạt hơn. Từ đó, Đại hội VII đã xác định phương châm đối ngoại là Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Trong giai đoạn mới, mục tiêu chung của các quốc gia là hòa bình, độc lập và phát triển. Các nước có thể có chế độ chính trị khác nhau, có điểm xuất phát từ kinh tế, chính trị, xã hội không giống nhau, thậm chí mục tiêu tiến lên khác nhau, nhưng vẫn có thể tỉm thấy tiếng nói chung trên nhiều vấn đề mà mỗi nước quan tâm. Quan hệ quốc tế rộng mở, đa phương (bao gồm song phương và đa phương) và đa dạng được Đảng ta khẳng định theo chiều hướng cởi mở vì mục tiêu ổn định và phát triển.
Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (6/1992) đã nhấn mạnh việc mở rộng, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ đối ngoại cả về chính trị, kinh tế, văn hoá và khoa học kỹ thuật, cả về Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức phi chính phủ, trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; bảo vệ, phát triển kinh tế, giữ gìn và phát huy những truyền thống và bản sắc tốt đẹp của nền văn hoá dân tộc. Mở rộng cửa để tiếp thu cái tốt: vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của nước ngoài, tiếp cận thị trường thế giới; nhưng phải đảm bảo an ninh quốc gia, bảo vệ tài nguyên, môi trường, hạn chế đến mức tối thiểu những mặt tiêu cực phát sinh trong quá trình mở cửa.
Xuất phát từ tình hình thế giới, chiến lược của các nước lớn và các xu thế chủ yếu trong quan hệ quốc tế, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1/1994) chủ trương triển khai mạnh mẽ và đồng bộ đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ đối ngoại, mở rộng quan hệ hợp tác nhiều mặt với tất cả các nước, trên cơ sở tư tưởng chỉ đạo là: giữ vững nguyên tắc độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với đặc điểm từng đối tượng ta có quan hệ.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII đã thể hiện sự tiếp tục đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng ta trước tình hình mới, đồng thời phản ánh tính tích cực, chủ động của Đảng ta trong việc nắm bắt tình hình và xử lý một cách sáng suốt, kịp thời các tình huống trong quan hệ quốc tế.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6/1996) đã tổng kết đánh giá công tác đối ngoại sau 10 năm đổi mới. Đại hội chỉ rõ: "Thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại là một nhân tố quan trọng góp phằn giữ vững hòa bình, phá thế bao vây, cấm vận, cải thiện và nâng cao vị thế nước ta trên thế giới, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước" (Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, trang 63). Trên cơ sở những thành tựu của công tác đối ngoại và đặc điểm tình hình thế giới, Đại hội VIII đã tiếp tục khẳng định: "Củng cố môi trường hòa bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa đê đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội" (Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, trang 120). Để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong tình hình mới, Đảng ta chỉ rõ phải tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ đối ngoại. Trong quan hệ với các nước, ra sức tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức ASEAN; không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống; coi trọng quan hệ với các nước phát triển và các trung tâm kinh tế – chính trị thế giới; đoàn kết với các nước đang phát triển, với phong trào không liên kết; tham gia tích cực và đóng góp cho hoạt động của các tổ chức quốc tế, các diễn đàn quốc tế. Phát triển quan hệ với các đảng cộng sản, đảng công nhân, các lực lượng cách mạng; quan hệ với các đảng cầm quyền, mở rộng ngoại giao nhân dân, các đoàn thể, các hội, các doanh nghiệp với các đối tác.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (12/1997), nhấn mạnh việc phát huy tốt nội lực kết hợp với mở rộng hợp tác quốc tế là vấn đề cơ bản quyết định thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và duy trì sự phát triển bền vững cho đất nước. Trong mối quan hệ giữa nội lực và nguồn lực bên ngoài, Đảng ta nhấn mạnh: Nếu không độc lập, tự chủ, không phát huy đầy đủ nội lực thì không thể đứng vững và đi lên một cách vững chắc và cũng không thể khai thác tốt hiệu quả nguồn lực bên ngoài. Mặt khác, trong thời đại ngày nay, nếu chúng ta không mở rộng quan hệ quốc tế, tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm và thị trường bên ngoài, thì Việt Nam khó thoát khỏi nguy cơ tụt hậu. Vì vậy, Đảng yêu cầu phải nắm vững và quán triệt sâu sắc phương châm: giữ vững độc lập, tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế; động viên cao độ nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ nguồn lực tối đa bên ngoài; xây dựng một nền kinh tế mở hội nhập khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu.
Sự phát triển đường lối đối ngoại của Đảng được xác định rõ hơn trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001), trong khi khẳng định toàn cầu hóa là một xu thế khách quan, Đảng ta đồng thời chỉ rõ xu thế này đang bị chi phối bởi các nước phát triển, gây nên sự bất bình đẳng và nguy cơ đối với các nước đang phát triển. Chính vì vậy, cần phải quán triệt cụ thể hơn quan điểm độc lập, tự chủ. Đại hội làm rõ hơn quan điểm về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, “Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phải đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp phát triển đất nước” (Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 25-26). Mở rộng quan hệ với các nước nhưng không để nền kinh tế Việt Nam bị lệ thuộc và bị sự chi phối của bên ngoài.
Điểm mới về quan điểm đối ngoại ở Đại hội IX là lần đầu tiên Đảng ta khẳng định: phải chủ động hội nhập về kinh tế. Trên cơ sở nhận thức sâu sắc bối cảnh thế giới và quan hệ chính trị quốc tế, đồng thời từ chỗ cảm nhận đầy đủ “thế” và “lực” của đất nước sau 15 năm đổi mới, Đại hội IX đã phát triển phương châm “Việt Nam muốn là bạn với các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” của Đại hội VII thành “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” (Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, trang 119). Điều này thể hiện bước phát triển mới về tư duy đối ngoại của Đảng ta, đồng thời khẳng định vị thế mới của đất nước ta trong quan hệ quốc tế đương đại.
Nhiệm vụ đối ngoại trong những năm tiếp theo được Đại hội IX chỉ rõ: tiếp tục giữ vững môi trường hòa bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo đảm độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực là tư duy mới của Đảng trong những năm đầu của thế kỷ XXI. Đảng ta chủ trương: "Xây dựng và thực hiện kế hoạch hội nhập kinh tế quốc tế với lộ trình hợp lý và chương trình hành động cụ thể, phát huy tính chủ động của các cấp, các ngành và các doanh nghiệp, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế" (Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, trang 120). Hướng ưu tiên cho hoạt động đối ngoại được khẳng định: coi trọng và phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng. Nâng cao hiệu quả và chất lượng hợp tác với các nước ASEAN, cùng xây dựng Đông Nam á thành một khu vực hòa bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển. Thúc đẩy quan hệ đa dạng với các nước phát triển và các tổ chức quốc tế, tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu, đấu tranh loại bỏ vũ khí giết người hàng loạt, bảo vệ hòa bình, chống chạy đua vũ trang, góp phần xây dựng trật tự chính trị, kinh tế quốc tế dân chủ, công bằng.
Nhằm đẩy mạnh hơn nữa chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế. Trên cơ sở khẳng định những thành tựu quan trọng trong việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, đồng thời kiểm điểm những mặt yếu kém của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời gian qua, Nghị quyết Bộ Chính trị đã tập trung làm rõ hơn mục tiêu và những quan điểm chỉ đạo của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
Về quan điểm chỉ đạo, Nghị quyết yêu cầu quán triệt chủ trương đã được xác định tại Đại hội IX là: “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”. Ngoài ra, Nghị quyết còn nhấn mạnh các quan điểm: hội nhập kinh tế là sự nghiệp của toàn dân; hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa đấu tranh và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội vừa không ít thách thức; phải nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ đó đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước vừa đáp ứng quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh quốc phòng. Nghị quyết đề ra 9 nhiệm vụ cụ thể và 6 biện pháp tổ chức thực hiện quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nhằm phát huy cao độ nội lực, khai thác tối đa nguồn lực bên ngoài để tạo thế và lực mới cho công cuộc phát triển kinh tế – xã hội, đưa đất nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc trong thế kỷ XXI.
Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (05/1/2004), đã tiến hành đánh giá kiểm điểm nửa nhiệm kỳ đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội IX cùa Đảng và đề ra một số chủ trương, chính sách, giải pháp lớn để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội IX trong những năm tiếp theo. Về hội nhập kinh tế quốc tế, Hội nghị nhấn mạnh, trong hai năm tới, phải có bước đi mạnh mẽ hơn, với quyết tâm cao hơn về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện có hiệu quả các cam kết và lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, chuẩn bị tốt các điều kiện trong nước để sớm gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO); kiên quyết đấu tranh với mọi biểu hiện của lợi ích cục bộ làm kìm hãm tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thu hút mạnh hơn nữa đầu tư trực tiếp nước ngoài, đặc biệt là đầu tư của các công ty đa quốc gia, coi đó là biện pháp rất quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và thâm nhập thị trường quốc tế… Xóa bỏ quy định không cho nước ngoài đầu tư vào những lĩnh vực ta có thể tự làm vì chủ trương này trên thực tế chỉ đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp trong nước muốn né tránh cạnh tranh, bất lợi cho nền kinh tế, cho người tiêu dùng và không phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Tóm lại, quan điểm đối ngoại rộng mở do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đề ra đã được các Đại hội và các Hội nghịi Trung ương, Bộ Chính trị từ khóa VI đến khóa IX tiếp tục bổ sung, phát triển ngày càng hoàn chỉnh đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa, xác lập vị thế của nước ta trên trường quốc tế, góp phần quan trọng vào sự thắng lợi của sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
iii. Thành tựu của hoạt động đối ngoại từ đường lối đối ngoại đổi mới của đảng.
Thực hiện đường lối chính sách đối đối ngoại đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, hoạt động đối ngoại đã thu được những thành tựu cực kỳ to lớn, góp phần không nhỏ vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước ta trong 15 năm cuối của thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI.
Thành tựu to lớn của hoạt động đối ngoại trong thời kỳ đổi mới là đã tạo thế, tạo lực và tạo đà cho đất nước ta thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội, phá thế bao vây cấm vận, bị cô lập, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu ngày càng xa so với các nước trên thế giới.
Nhận rõ xu hướng phát triển của lịch sử nhân loại, tổng kết thực tiễn 10 năm (1975 - 1985) cả nước định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội, với những thắng lợi và cả những thất bại, những khuyết điểm, Đảng chủ trương đổi mới toàn diện đất nước. Về đối ngoại đã mở rộng, hội nhập, phá thế bao vây cấm vận của Mỹ, hội nhập với các nước trong khu vực. Cùng với việc giải quyết tốt các vấn đề Campuchia, chúng ta rút hết quân tình nguyện Việt Nam sang giúp bạn về nước năm 1989 đã làm cho các nước trên thế giới hiểu nghĩa cử hào hiệp sáng ngời chính nghĩa, đầy thiện chí của Việt Nam, kính trọng nhân dân ta, gạt mũi nhọn của Mỹ và các nước thù địch lợi dụng vấn đề này để tuyên truyền chống phá Việt Nam.
Giải quyết tốt mối quan hệ láng giềng hợp tác hữu nghị thân thiết với các nước láng giềng. Bình thường hóa quan hệ với Trung Qíôc năm 1991. Sau khi bình thường hóa quan hệ ta đã ký kết các hiệp định biên giới trên bộ, trên biển, hiệp định đánh bắt cá vùng biển Đông với Trung Quốc. Ký kết các hiệp định song phương giải quyết các vấn đề còn tồn đọng về biên giới với các nước láng giềng Lào và Campuchia, tạo sự ổn định trong quan hệ với các nước này.
Có lộ trình thích hợp để gia nhập tổ chức Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN). Tháng 7/1992, Việt Nam ký hiệp ước Bali trở thành quan sát viên của tổ chức này. Đến tháng 7/1995, Việt Nam được kết nạp là thành viên chính thức của tổ chức ASEAN.
Tháng 6/1996, Việt Nam nộp đơn xin gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình Dương (APEC). Đến tháng 11/1998, Việt Nam được kết nạp làm thành viên chính thức của APEC,
Kết quả của đường lối đối ngoại mở rộng, đa dạng hóa, đa phương hóa với tinh thần Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới. Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Mỹ năm 1995, khép lại quá khứ hướng tới tương lai. Việt Nam đã có quan hệ với hầu hết các nước trên thế giới không phân biệt chế độ chính trị khác nhau. Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ chính thức với hơn 170 nước. Là đối tác thương mại của 153 quốc gia và gần 500 tổ chức phi Chính phủ, trong đó có 380 tổ chức có văn phòng đại diện tại Việt Nam.
Có quan hệ tốt với các nước xã hội chủ nghĩa, các đảng cộng sản, công nhân, phong trào đấu tranh của lực lượng tiến bộ trên thế giới. Hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam có quan hệ với gần 200 đảng phái trong đó có 101 đảng cộng sản và đẩy mạnh quan hệ với các đảng cầm quyền. Nhiều đoàn lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, Quốc hội thăm các nước. Nước ta cũng đã đón nhiều nguyên thủ các nước lớn đến thăm và làm việc tại Việt Nam những năm gần đây.
Nhờ đường lối đối ngoại đúng đắn, Việt Nam đã có chính sách rõ ràng, ổn định thu hút được vốn đầu tư ngày càng nhiều từ các nước có nền kinh tế và thương mại phát triển cao, các trung tâm kinh tế phục vụ cho sự phát triển đất nước. Tại Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam, các nhà tài trợ Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu á (ADB), Nhật Bản, EU đã dự định tài trợ cho Việt Nam hàng tỷ USD mỗi năm. Mỗi năm có khoảng 80 triệu đôla thuộc các tổ chức phi Chính phủ viện trợ cho Việt Nam. Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài chuyển về nước khoảng 2,4 tỷ USD (riêng năm 2004 đạt 3 tỷ USD) góp phần vào cân bằng cán cân thanh toán ngoại tệ. Đối ngoại đã góp phần đẩy mạnh vận động người Việt ở xa Tổ quốc đóng góp cho phát triển quan hệ với các nước và chuyển giao vốn, công nghệ tái thiết đất nước. Đã có hơn 200 trí thức Việt kiều về nước để làm việc và 156 trí thức đăng ký chuyển giao tri thức và công nghệ cho các dự án theo luật đầu tư nước ngoài với số vốn hàng chục triệu USD. Đối ngoại góp phần thúc đẩy kim ngạch buôn bán song phương và đa phương ngày càng tăng trên tất cả các thị trường, các khu vực trên thế giới.
Hoạt động đối ngoại đã tạo cho Việt Nam tham gia ngày càng nhiều vào các diễn đàn quốc tế và khu vực. Việt Nam đã có tiếng nói ở Liên hợp quốc: là Phó Chủ tịch Hội đồng khoá 57, thành viên của Uỷ ban nhân quyền, Hội đồng chấp hành UNESCO, thành viên Hội đồng chấp hành chương trình phát triển Liên hợp quốc. Việt Nam đã có đóng góp vào tiến trình hợp tác ASEAN, thực hiện chương trình hành động Hà Nội, thúc đẩy lộ trình tham gia AFTA vào năm 2006, phát triển hành lang Đông - Tây, hợp tác tiểu vùng sông Mê Kông, tiếp tục trao đổi với nhóm cộng tác viên giải quyết các vướng mắc để gia nhập WTO. Đối ngoại còn đóng góp to lớn vào tổ chức thành công các hội nghị quốc tế và khu vực, được tín nhiệm giao tổ chức hội nghị cấp cao Diễn đàn hợp tác kinh tế á - Âu (ASEM) lần thứ năm vào năm 2004 và Hội nghị cấp cao APEC năm 2006.
Với chính sách đối ngoại đúng đắn, rộng mở và đa dạng Việt Nam đã giữ vững sự ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, đập tan, giải quyết tốt những vấn đề nổi cộm do chủ nghĩa đế quốc dùng âm mưu "diễn biến hoà bình" thông qua việc giúp các tổ chức phản động chuyển lửa về quê hương, kích động các vấn đề dân tộc, tôn giáo ở Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và Tây Nghệ An…
Quán triệt quan điểm, đường lối chính sách đối ngoại của Đảng, các hoạt động đối ngoại của Đảng tiếp tục được triển khai đồng bộ, chủ động, tích cực đang thu được nhiều thành tựu rất to lớn. Trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào, thế giới đang có những diễn biến phức tạp, chính sách đối ngoại của Việt Nam đã góp phần giữ vững sự ổn định chính trị, bảo vệ định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm an ninh trật tự và phát triển của đất nước trong thế kỷ XXI.
KẾT LUẬN
Xuất phát từ đặc điểm tình hình thế giới và tình hình trong nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã quyết định đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có đổi mới đường lối đối ngoại của Việt Nam. Trải qua các kỳ Đại hội lần thứ VII, VIII, IX của Đảng và các Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương, các Nghị quyết của Bộ Chính trị, đã từng bước bổ sung, phát triển, hoàn thiện đường lối đối ngoại của Đảng cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam và thích ứng với tình hình quốc tế. Đó là đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển.
Với đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng, hoạt động đối ngoại của Việt Nam trong gần 20 năm qua đã thu được nhiều thành tựu quan trọng, phá thế bao vây, cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam. Mở rộng được quan hệ song phương và đa phương với nhiều nước trên thế giới; tham gia và gia nhập vào nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và khu vữc, thu hút được một khối lượng lớn vốn từ bên ngoài cùng nhiều công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Đối ngoại cũng góp phần đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nền kinh tế nước ta có bước phát triển mới, tạo ra thế và lực của Việt Nam vững bước đi lên trên thương trường và chính trường quốc tế trong thế kỷ XXI./.
Có thể bạn muốn biết?
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét