Nâng cao chất lượng hiệu quả công tác tư tưởng ở cơ sở xã, phường của Hà Nội hiện nay
Chủ Nhật, 13 tháng 11, 2016
Nâng cao chất lượng hiệu quả công tác tư tưởng ở cơ sở xã, phường của Hà Nội hiện nay
A. Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong toàn bộ hoạt động của Đảng thì công tác tư tưởng được Đảng xác định nó ở vị trí hàng đầu. Ngành Tư tưởng – Văn hoá được ra đời cùng với sự ra đời của Đảng ta. Công tác tư tưởng còn được ra đời sớm hơn sự ra đời của Đảng. Người đầu tiên làm công tác tư tương để chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng ta đó là chủ tịch Hồ Chí Minh. Kể từ khi thành lập (1-8-1930) đến nay, ngành tư tưởng – văn hoá đã luôn hoàn thanh sứ mệnh vẻ vang của mình.
Công tác tư tưởng phải bám sát thực tiễn, phải hướng mạnh về cơ sở, phải nắm vững tâm tư tình cảm, tâm lý nguyện vọng của nhân dân, giải đáp kịp thời những vướng mắc trong tư tưởng của mọi đối tượng, ở mọi tầng lớp, phải hướng vào phục vụ nhân dân, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng có nhiều khó khăn… Đó là một nhiệm vụ hết sức to lớn đối với công tác tư tưởng hiện nay.
Đất nước ta đang bước vào thời kì mới: công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Từ sau Đại hội IX đến nay, tình hình thế giới và khu vực đã và đang tác động trực tiếp, mạnh mẽ đến đất nước ta, tạo cả cơ hội lớn đan xen thách thức lớn. ở trong nước, Đại hội IX của Đảng thành công tốt đẹp đã tác động tích cực đến tình hình chính trị – kinh tế – xã hội đất nước: thế và lực của đất nước ta được tăng cường đã củng cố thêm niềm tin của nhân dân vào công cuộc đổi mới, làm tăng thêm sự nhất trí trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội. Đó là những thuận lợi cơ bản để thực hiện Nghị quyết Đại hội IX. Tuy nhiên, năng suất chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế vẫn còn thấp, nhiều vấn đề xã hội bức xúc, nạn tham nhũng, lãng phí và tình trạng suy thoái đạo đức lối sống còn nghiêm trọng: các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hoà bình” gây sức ép với ta dưới các chiêu bài “dân chủ, nhân quyền” dân tộc, tôn giáo, tiếp tay cho các thế lực phản động và bọn cơ hội chính trị trong nước hoạt động chống phá ta ngày càng quyết liệt, thâm độc hơn những nhân tố trên đã cản trở không nhỏ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ta. Những nguy cơ tiềm ẩn đe doạ sự ổn định chính trị của đất nước có mặt tăng lên không thể xem thường. Thực tiễn đó đòi hỏi công tác tư tưởng phải phát huy hơn nữa vị trí, vai trò của mình trong đời sống xã hội, xứng đáng là công tác hàng đầu trong hoạt động lãnh đạo của Đảng.
Hà Nội – Thủ đô của cả nước có những bước phát triển vượt bậc trên mọi lĩnh vực: Kinh tế – Chính trị – Văn hoá - Xã hội…Thành công đó có sự góp sức không nhỏ của công tác tư tưởng mà Đảng bộ thành phố đã và đang tiến hành. Nhưng trước những biến đổi phức tạp của thực tiễn, công tác tư tưởng trên địa bàn thành phố cần phải đẩy mạnh hơn nữa. Đặc biệt với phương châm hướng về cơ sở cần thiết phải nâng cao chất lượng công tác này ở cơ sở xã, phường trên địa bàn thành phố.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, cũng như trước thực tiễn công tác tư tưởng ở Hà Nội những năm qua, em mạnh dạn chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng hiệu quả công tác tư tưởng ở cơ sở xã, phường của Hà Nội hiện nay” làm đề tài tiểu luận môn Nguyên lý công tác tư tưởng (học phần II).
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Công tác tư tưởng được Đảng ta đặc biệt coi trọng, do đó các tác giả cũng đã đi sâu nghiên cứu công tác tư tưởng này trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Tiêu biểu trong số các tác giả phải kể đến là:
- Đào Duy Quát: “Về công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004”….
Đây là cuốn sách cơ sở để đề tài này nghiên cứu thực tiễn công tác tư tưởng trên địa bàn ở cơ sở tại Hà Nội. Đề tài là sự mong muốn được góp một phần nhỏ vào kho tàng lý luận của Đảng và thực tiễn công tác tư tưởng mà Đảng bộ thành phố đã và đang tiến hành.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận liên quan đến công tác tư tưởng.
- Khảo sát thực trạng công tác tư tưởng ở cơ sở xã, phường của Hà Nội. Chỉ rõ những thành tựu, hạn chế và các nguyên nhân của thành tựu, hạn chế.
- Đề xuất một số giải pháp cụ thể mang tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng công tác tư tưởng ơ cơ sở xã, phường của Hà Nội.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở lý luận: Đề tài sử dụng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở để nghiên cứu các vấn đề về công tác tư tưởng cũng như trong việc khảo sát thực trạng, đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác tư tưởng ở cơ sở xã, phường của Hà Nội.
* Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng phương pháp phân tích tài liệu là chủ yếu. Bên cạnh đó đề tài còn sử dụng phương pháp phỏng vấn, phân tích tổng hợp…
5. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài còn có phần nội dung với 3 chương 6 mục.
B. Phần nội dung
Chương I: Một số vấn đề lý luận về công tác tư tưởng
1.1. Công tác tư tưởng và các hình thái công tác tư tưởng.
1.1.1. Khái niệm công tác tư tưởng
Chúng ta đều biết công tác tư tưởng xuất hiện từ khi xã hội loài người phân chia thành giai cấp và theo đó xuất hiện hệ tư tưởng. Công tác tư tưởng ra đời do nhu cầu hình thành, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng của một giai cáp nhất định trong xã hội. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, các giai cấp thống trị thông qua hoạt động của đội ngũ các nhà tư tưởng và hệ thống các thiết chế tư tưởng nhằm truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp mình thành hệ tư tưởng thống trị trong xã hội. Ngược lại các giai cấp bị trị có thể thông qua các nhà tư tưởng của giai cấp mình để hình thành truyền bá hệ tư tưởng của mình qua nhiều con đường khác nhau (hợp pháp hay không hợp pháp, công khai hay bí mật…) đến quần chúng.
Do đó, sự tác động của chủ thể tư tưởng đến các quan hệ tư tưởng và quá trình tư tưởng nhằm đạt mục tiêu đề ra đó là hoạt động tư tưởng hay công tác tư tưởng.
Như vậy, công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một chính Đảng nhằm hình thành phát triển truyền bá hệ tư tưởng trong quần chúng hành động vì lợi ích của chủ thể tư tưởng.
Công tác tư tưởng dưới chủ nghĩa xã hội là hoạt động có mục đích của Đảng Cộng sản và Nhà nước, nhằm hình thành hệ tư tưởng chi phối, thống trị trong đời sống tinh thần xã hội; hình thành phát triển, truyền bá cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng trong xã hội, cổ vũ động viên mọi người hành động chủ động, tích cực, tự giác, sáng tạo vì lý tưởng, mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Công tác tư tưởng cùng với công tác tổ chức góp phần xây dựng Đảng cộng sản luôn luôn là đội tiên phong, bộ tham mưu chính trị của giai cấp công nhân và của cả dân tộc. Công tác tư tưởng góp phần quan trọng vào việc hình thành tầng kiến trúc về mặt hình thái ý thức.
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, tư tưởng là vấn đề cốt lõi của đời sống tinh thần của con người, tư tưởng luôn giữ vai trò chủ đạo đầu tiên chi phối sự suy nghĩ hành động của con người. Bác Hồ luôn coi công tác tư tưởng là sự tác động lên trạng thái tư tưởng, tinh thần, tình cảm của những đối tượng khác nhau nhằm thúc đẩy cách mạng tiến lê. Tư tưởng đúng đắn, thông suốt, lập trường giai cấp vững vàng luôn luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu tạo nên lòng quyết tâm, ý chí kiên cường của chiến sĩ cách mạng, là tiền đề là cơ sở để hành động thống nhất, mạnh mẽ có hiệu quả. Bác Hồ coi công tác tư tưởng là mặt trận và cán bộ đảng viên của Đảng là chiến sĩ, các cán bộ tư tưởng chuyên trách là chiến sĩ xung kích trên mặt trận quan trọng hàng đầu này.
1.1.2. Các hình thái của công tác tư tưởng
Là một quá trình liên tục gồm nhiều khâu, nhiều bộ phận kế tiếp nhau, công tác tư tưởng bao gồm 3 quá trình cơ bản: quá trình sáng tạo hệ tư tưởng và vận dụng hệ tư tưởng để đề ra đường lối, chính sách; quá trình truyền bá hệ tư tưởng và đường lối chính sách (tái sản xuất hệ tư tưởng): quá trình biến hệ tư tưởng, đường lối, chính sách thành hiện thực (“vật chất hoá” hệ tư tưởng). Ba quá trình này được V.I.Lênin gọi một cách tương ứng là công tác lý luận, công tác tuyên truyền và công tác cổ động. Đó chính là 3 hình thức cơ bản của công tác tư tưởng. ở đó:
* Công tác lý luận là hoạt động hướng vào việc hình thành, bảo vệ và phát triển hệ tư tưởng của giai cấp: vận dụng hệ tư tưởng gắn với tổng kết thực tiễn để hình thanh và phát triển cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược của chính Đảng Cộng sản để chỉ đạo cuộc đấu tranh lật đổ chế độ tư sản, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Công tác lý luận của Đảng ta bao gồm những nội dung cơ bản sau: Phát triển và bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; Vận dụng sáng tạo hệ tư tưởng gắn với tổng kết thực tiễn cách mạng Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc các kinh nghiệm cách mạng thế giới để nhận thức sáng tỏ hơn nữa chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam; Xây dựng phát triển hệ thống quan điểm nguyên tắc chiến lược phát triển từng lĩnh vực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội: kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại… tiến hành cuộc đấu tranh chống lại cuộc tiến công của các thế lực thù địch bảo vệ hệ tư tưởng, cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
* Công tác tuyên truyền là hoạt động truyền bá hệ tư tưởng, cương lĩnh, đường lối của Đảng trong cán bộ Đảng viên và quần chúng nhân dân, xây dựng thế giới quan, nhân sinh quan, bồi dưỡng tình cảm, củng cố niềm tin, hướng dẫn hành động thực hiện thắng lợi mục tiêu lý tưởng.
ở nước ta, công tác tuyên truyền là hoạt động truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước làm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhận thức có cơ sở khoa học thực tiễn quy luật xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng thế giới quan, nhân sinh quan cộng sản, niềm tin vững chắc vào sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hành động tự giác sáng tạo trong sự nghiệp bảo vệ độc lập chủ quyền lãnh thổ quốc gia, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng văn minh, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Khác với mọi cuộc cách mạng, cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp tự giác của hàng triệu quần chúng. Chính Đảng Cộng sản thông qua công tác tư tưởng, chủ yếu là hoạt động tuyên truyền để đưa nhân tố tự giác đến mọi người. Xác định vị trí quan trọng của công tác quan trọng này, C.Mác viết: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiện không thể thay thế được sự phê phán bằng vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất, nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất một khi nó xâm nhập vào quần chúng”.
* Công tác cổ động là khâu quan trọng của hoạt động tư tưởng. Công tác cổ động có nhiệm vụ thông tin, giải thích cho quần chúng hiểu biết được kịp thời những sự kiện đang diễn ra trong đời sống: Giải thích đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, cổ vũ động viên mọi người hành động. Trên cơ sở hệ tư tưởng, cương lĩnh, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước, công tác cổ động thường lấy những sự kiện, sự việc cụ thể ở đơn vịm địa phương, ở trong nước hay ở nước ngoài mà nhiều người biết để giải thích, khêu gợi, động viên cổ vũ quần chúng thực hiện một nhiệm vụ cụ thể nào đó.
Khái niệm cổ động đã làm rõ nhiệm vụ chủ yếu của nó là cổ vũ quần chúng nhân dân đi đến hành động. Nội dung “cổ vũ” phải là những sự kiện, sự việc quần chúng biết rõ để thông tin, giải thích, khêu gợi cổ vũ hành động. Do đó, khẩu hiệu hành động là linh hồn, là khâu quyết định chuyển nhận thức tỉnh tình cảm thanh hành động cách mạng tức là chuyển “tư tưởng” thành sức mạnh vật chất.
1.2. Hiệu quả công tác tư tưởng và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng trong giai đoạn hiện nay.
1.2.1. Hiệu quả của bất kỳ hoạt động nào cũng là sự tương quan giữa mục đích đề ra và kết quả đạt được trong một điều kiện xã hội nhất định. Kết quả và mục đích gắn liền với nhau. Kết quả là biểu hiện thực tế của mục đích, là mục đích đã được hiện thực hoá. Còn mục đích lại chính là kết quả mà con người mong muốn đạt tới, là kết quả “giả định” trước. Tuy nhiên, mục đích và kết quả không phải bao giờ cũng tương đồng nhau. Vì vậy, người ta cho rằng hiệu quả là sự ăn khớp một phần hay hoàn toàn giữa kết quả với mục đích và nhiệm vụ đã đặt ra từ trước.
Hiệu quả thực là sự tương quan giữa kết quả đạt được do tác động tư tưởng mang lại với mục đích của thực trong một điều kiện xã hội nhất định và với một chi phí nhất định.
Trong Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX về: Những nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới. Đảng ta một lần nữa khẳng định: tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng.
Để tiếp tục sự nghiệp đổi mới, chúng ta cần và phải nêu bắt đầu từ đánh giá hiệu quả các hoạt động trên lĩnh vực tư tưởng. Chỉ khi đánh giá đúng hiệu quả của các hoạt động mà chúng ta đã và đang làm thì mới có cơ sở xác định phương hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng.
Công tác tư tưởng có ba bộ phận cơ bản cấu thành , do đó đánh giá hiệu quả công tác tư tưởng có thể đánh giá hiệu quả trên từng bộ phận, đó là: hiệu quả công tác lý luận, hiệu quả công tác tuyên truyền, hiệu quả công tác cổ động.
Khi đánh giá hiệu quả công tác nghiên cứu lý luận cần đánh giá trình độ lý luận chính trị của toàn Đảng, kết quả phát triển hệ tư tưởng của Đảng, đó là phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Thí dụ, đến Đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng ta đã làm rõ hơn tính chất thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, làm rõ hơn cơ cấu giai cấp xã hội của nước ta và nội dung của đấu tranh giai cấp và nhất là Đại hội IX đã làm rõ khái niệm, nguồn gốc và chín nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ Đại hội IX đến Hội nghị Trung ương 8 khoá IX, Đảng ta đã cụ thể hoá toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Các Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 đã cụ thể hoá toàn bộ ba nội hàm cơ bản của đường lối chung: mục tiêu, phương hướng chiến lược và động lực chủ yếu.
Đánh giá hiệu quả công tác tuyên truyền, phải đánh giá được hiệu quả giáo dục chính trị nhằm tăng cường sự kiện định đối với mục tiêu lý tưởng chủ nghĩa xã hội, kiên định đối với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định sự lãnh đạo của Đảng, nhất trí cao với đường lối Đại hội IX và các chính sách của Đảng, Nhà nước.
Hiệu quả công tác tuyên truyền còn được thể hiện ở những chuẩn mực phẩm chất đạo đức con người mới xã hội chủ nghĩa (lòng yêu nước, ý chí tự lực tự cường, tinh thần xả thân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tinh thần đoàn kết cộng đồng, gắn kết cá nhân với gia đình, với làng, với nước; tinh thần lao động cần cù sáng tạo, với lương tâm nghề nghiệp; tinh thần ham học hỏi cầu tiến bộ, làm chủ khoa học công nghệ hiện đại: lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý, lối sống giản dị, trong sáng…) được bồi dưỡng và phát triển trong các giai cấp, tầng lớp xã hội như thế nào. Hiệu quả công tác tuyên truyền còn được đánh giá bằng hiệu quả xây dựng Đảng mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức ra sao?
Hiệu quả công tác cổ động phải thể hiện chủ yếu bằng các phong trào hành động cách mạng của quần chúng, các phong trào thi đua yêu nước, hiệu quả của phong trào được thể hiện trong việc hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, con người và tổ chức có bước trưởng thành mạnh mẽ, xuất hiện nhiều điển hình tiên tiến, nhiều nhân tố mới.
Hoạt động tư tưởng thông qua các phương tiện, công cụ hay có thể nói là thông qua các binh chủng tư tưởng chủ yếu sau:
- Các cơ quan nghiên cứu lý luận.
- Hệ thống các trường chính trị của hệ thống chính trị; hệ thống giáo dục Mác – Lênin trong các trường Đại học, cao đẳng; hệ thống giáo dục công dân trong các trường phổ thông.
- Hệ thống tuyên truyền miệng (báo cáo viên, tuyên truyền viên).
- Hệ thống thông tin đại chúng (báo chí, xuất bản).
- Hệ thống văn hoá văn nghệ.
- Hệ thống nghiên cứu điều tra dư luận xã hội.
Do đó, đánh giá hiệu quả công tác tư tưởng đòi hỏi phải đánh giá hiệu quả hoạt động của từng binh chủng của công tác tư tưởng; phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của từng binh chủng. Thí dụ; đánh giá hiệu quả báo chí, xuất bản phải căn cứ vào chức năng cơ bản sau:
- Là người tuyên truyền tập thể, tổ chức tập thể, cổ vũ tập thể việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Là diễn đàn của nhân dân, nhân dân thông qua báo chí thực hiện quyền làm chủ của mình.
- Thông tin thực hiện quyền được thông tin của nhân dân.
- Chức năng giải trí lành mạnh.
Đánh giá hiệu quả hoạt động của văn hoá văn nghệ phải đánh giá trình độ thẩm mỹ và khả năng sáng tạo các giá trị văn hoá của quần chúng, đánh giá mức độ hưởng thụ các giá trị văn hoá của quần chúng, đánh giá hoạt động sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sỹ tức là đánh giá chất lượng (tư tưởng và nghệ thuật) của các tác phẩm văn học nghệ thuật.
Đổi mới công tác tư tưởng là yêu cầu vừa cơ bản vừa cấp bách trong hoạt động của Đảng ta. Để có thể tiến hành có hiệu quả hoạt động đổi mới trên lĩnh vực công tác tư tưởng đòi hỏi phải thống nhất nhận thức quan niệm về hiệu quả công tác tư tưởng. Quan trọng hơn, từ quan niệm đã được thống nhất này,phải tổng kết đánh giá hiệu quả từng hình thái công tác tư tưởng và trên cơ sở đó mới đánh giá hiệu quả hoạt động tư tưởng trong từng thời kỳ, từng giai đoạn. Trên cơ sở đánh giá đúng hiệu quả, chúng ta có thể rút ra những nguyên nhân của hiệu quả và từ đó sẽ giúp chúng ta có câu trả lời đúng đắn: phải làm gì để đổi mới nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng trong thời kỳ mới.
1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay.
Ngày nay, trong công việc đổi mới, công tác tư tưởng trở nên vô cùng quan trọng. Hiệu quả hoạt động của công tác này có tác động lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội. Chính vì vậy, cần thiết phải nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác tư tưởng trong toàn xã hội mà cơ sở là nơi đầu tiên cần thực hiện.
Tình hình đất nước ta từ sau Đại hội IX của Đảng đến nay tiếp tục có những đổi biến mới. Thành công tốt đẹp của Đại hội đã tác động tích cực đến tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước: Thế và lực của ta được tăng cường, đã củng cố thêm niềm tin trong nhân dân vào công cuộc đổi mới. Làm tăng thêm sự nhất trí trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội. Tuy nhiên, năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, nhiều vấn đề xã hội bức xúc, nạn tham nhũng, lãng phí và tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống còn nghiêm trọng, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hoà bình” gây sức ép với ta dưới các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, dân tộc, tôn giáo, tiếp tay cho các thế lực phản động và bọn cơ hội chính trị trong nước chống phá ta ngày càng quyết liệt và thâm độc hơn.
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và những khó khăn, tiêu cực trong nước: Đại bộ phận cán bộ, đảng viên kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nghiêm túc thực hiện cương lĩnh, điều lệ và Nghị quyết của Đảng, nêu cao vai trò lãnh đạo quàn chúng, tinh thần trách nhiệm trong công tác, tích cực học tập và nâng cao trình độ mọi mặt, giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng, sống mẫu mực, đoàn kết thống nhất trên nguyên tắc chung, quan hệ mật thiết với nhân dân; ý thức đấu tranh với những quan điểm tư tưởng sai trái và âm mưu thủ đoạn “diễn biến hoà bình”, bảo vệ Đảng, chế độ được nâng lê; tham gia nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh với ý thức tự nguyện và thái độ nghiêm túc…
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực là cơ bản thì một bộ phận cán bộ, đảng viên nhận thức về chính trị còn thấp so với yêu cầu của tình hình mới, thiếu ý thức tự giác, chủ động sáng tạo: thực hiện tự phê bình chưa tốt. Một số đảng viên sa sút về phẩm chất đạo đức, chính trị, lười học tập, sa đà ăn chơi: giảm sút ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm kém.
Đa số nhân dân thực sự tin vào triển vọng phát triển kinh tế của đất nước nhưng chưa hoàn toàn tin tưởng vào khả năng giải quyết có hiệu quả của các vấn đề xã hội và đấu tranh chống tham nhũng: chưa ngăn chặn được chiều hướng suy giảm niềm tin vào một bộ phận cán bộ công quyền ở các cấp. Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân về cơ bản xác lập trên diện rộng nhưng chưa thực sự vững chắc ở từng lúc từng nơi.
Tình trạng phổ biến trong nhân dân là lo lắng về việc làm, tiền lương, thu nhập không ổn định, sự phát triển của tệ nạn ma tuý, mại dâm, cờ bạc…tình trạng dễ hư hỏng của thanh niên, thiếu niên về những thách thức trong hội nhập, cạnh tranh, về nợ nước ngoài đến kỳ phải trả ngày càng lớn nhưng quản lý còn nhiều mặt yếu kém nên thất thoát cũng lớn, làm giảm khả năng hoàn trả.
Một bộ phận nhân dân bất bình vì ở nhiều địa phương, cơ sở thiếu công khai, minh bạch trong thực tiễn chính sách đền bù giải phóng mặt bằng. Tình trạng tăng thời gian lao động và cường độ lao động ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh; khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn ngay cả trong Đảng; tệ nạn tham nhũng, sách nhiễu dân, tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn có hiệu quả.
Thực tiễn nóng hổi và bức xúc đó đòi hỏi sự tăng cường hơn nữa của công tác tư tưởng. Công tác tư tưởng với phương châm hướng về các cơ sở phải tham gia mạnh mẽ vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Quan trọng hơn, công tác tư tưởng phải làm sao đưa đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với đông đảo quần chúng nhân dân, giúp nhân dân thực hiện đường lối bằng các chương trình kế hoạch cụ thể đồng thời cổ vũ động viên họ tham gia vào các hoạt động xã hội khác để tạo ra sự đồng thuận trong xã hội. Khắc phục những tiêu cực đồng thời phát huy hơn nữa mặt tích cực của đời sống xã hội là một nhiệm vụ hết sức nặng nề và cũng rất tự hào của công tác tư tưởng.
Trước những biến đổi sâu sắc thực tiễn có thể thấy rằng việc nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng ở cơ sở là cần thiết và đặc biệt quan trọng.
Chương II:
Thực trạng công tác tư tưởng ở cơ sở.
2.1. Những thành tựu và nguyên nhân.
Thứ nhất, góp phần giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển, tin tưởng ở sự lãnh đạo của Đảng, tin tưởng ở sự nghiệp đổi mới.
Thông qua các hình thức của công tác tuyên giáo đã làm cho nhận thức nhân dân ngày càng nâng lên. Người dân, từng bước hiểu được tại sao chúng ta phải đi theo con đường xã hội chủ nghĩa chứ không phải con đường nào khác. Nhân dân hiểu và tin tưởng và đường lối nhưng quan trọng hơn là còn đấu tranh với những biểu hiện sai trái đẻ bảo vệ đường lối, bảo vệ sự lựa chọn chính trị là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Chính ở cơ sở đang hàng ngày, hàng giờ diễn ra những hoạt động sôi động của quần chúng trên lĩnh vực: sản xuất, kinh doanh dịch vụ, khoa học kỹ thuật, văn hoá, văn nghệ thể thao, những hoạt động giữ gìn an ninh, trật tự an toàn xã hội, tích cực đấu tranh chống biểu hiện của những tư tưởng “lạc dòng”, “lạc điệu”, chống “diễn biến hoà bình”, chống những tệ nạn xã hội, thoái hoá biến chất của bộ phận cán bộ đảng viên ở cơ sở v.v… Thông qua đó, công tác tư tưởng đã phát huy vai trò, hiệu quả chính trị tích cực trong việc phát huy dân chủ, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở. Niềm tin của nhân dân với định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển, tin ở chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tin ở sự lãnh đạo của Đảng, tin ở đường lối của đảng ngày càng tăng lên sâu sắc. Qua điều tra xã hội học có từ 86,6% đến 95,5% số người được hỏi đã khẳng định điều này. Đây là cái được lớn nhất của công tác tư tưởng trên địa bàn phường, xã trong thời gian vừa qua.
Thứ hai, công tác tư tưởng đã làm tốt chức năng tham mưu cho các cấp uỷ Đảng ở cơ sở. Đảm bảo quyền dân chủ của dân, phát huy khả năng sáng tạo, phát huy tiềm lực về vật chất và tinh thần của nhân dân trong phát triển kinh tế – xã hội, đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư, xây dựng hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh, thể hiện quyền lực của dân, do dân, vì dân.
Thông qua cơ quan chức năng tham mưu cho cấp uỷ, công tác tư tưởng đã làm tốt hoạt động đề suất, soạn thảo lập kế hoạch thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Đảng uỷ cấp trên. Và khi được thông qua, chính công tác tư tưởng lại thực hiện nhiệm vụ triển khai, thực hiện các chỉ thị nghị quyết đó đến cơ sở bằng nhiều hình thức, bước đi thích hợp, biến ý tưởng thành hiện thực, thành phong trào cách mạng của quần chúng cơ sở.
Thứ ba, công tác tư tưởng góp phần phát huy và thực hiện có hiệu quả quy chế dân chủ, thực hiện tốt cơ chế đại diện và dân chủ trực tiếp ở cơ sở. Gắn chặt chẽ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữ vững kỷ cương, gắn phát huy dân chủ với tăng cường thực hiện pháp chế.
Theo hướng đó, trong những năm qua, các tổ chức đoàn thể chính trị – xã hội đã phối hợp với chính quyền tổ chức các hình thức tuyên truyền, phổ biến để thực hiện trên thực tế bảo đảm quyền thông tin của nhân dân bằng công khai hoá 14 việc dân phải biết thông qua 6 hình thức tiến hành (thông báo bằng văn bản niêm yết tại trụ sở công chính xã, thôn; thông qua hệ thống đài huyện, đài xã, thôn; thông báo phổ biến tại các kỳ họp tiếp xúc cử tri trước khi mở các kỳ họp Hội đồng nhân dân – Uỷ ban nhân dân; thông qua các kỳ họp liên tịch giữa cấp uỷ – chính quyền, Ban chấp hành các đoàn thể xã, thôn, xóm, cụm dân cư…); 5 việc dân cùng bàn và trực tiếp quyết định (như: các loại mức đóng góp, xây dựng hương ước, quy ước, quy chế, tự quản v.v…); 9 việc dân trực tiếp bàn và tham gia ý kiến giúp Hội đồng nhân dân – Uỷ ban nhân dân quyết định về những vấn đề liên quan đến đời sống kinh tế – chính trị – văn hoá xã hội – an ninh quốc phòng của địa phương; 11 việc nhân dân giám sát kiểm tra thông qua 6 phương cách thực hiện (thông qua các hoạt động của Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể, thanh tra nhân dân…) về các nội dung chủ yếu (như: hoạt động của Hội đồng nhân dân – Uỷ ban nhân dân; thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và các quyết định của Uỷ ban nhân dân; việc giải quyết những khiếu nại, khiến tố; thực hiện kế hoạch chi tiêu ngân sách, các loại quỹ đóng góp; quyết toán các công trình xây dựng; quản lý sử dụng đất đai, v.v…).
Qua điều tra xã hội học cho thấy nhân dân đã ghi nhận tác dụng thực hiện Quy chế dân chủ đã mang lại hiệu quả với các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội (82,5% đánh giá quy chế dân chủ có vai trò tích cực và đáng kể) so với khi chưa có quy chế đã khẳng định điều này.
Thứ tư, công tác tư tưởng đã góp phần quan trọng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc.
Những năm gần đây, không ít những kế hoạch xây dựng những công trình công cộng, cơ sở hạ tầng… đều được đem bàn bạc công khai hơn, dân chủ hơn, có tổ chức để nhân dân giám sát, nên có hiệu quả hơn, tiết kiệm hơn. Công tác tuyên truyền, vận động đã công khai bàn bạc thành lập các ban đại diện, ban quyên góp, ban giám sát theo dõi việc thu chi, quyết toán việc xây dựng các công trình ở nơi thôn, xóm, như đường ngõ, các di tích lịch sử v.v… Các mức đóng góp đưa ra dân bàn, thống nhất theo hình thức tự nguyện đối với đình, chùa, miếu mạo; tự giác thống nhất phân bổ các hộ đóng góp xây dựng đường xóm, ngõ; ngoài ra còn vận động các đơn vị đóng trên địa bàn giúp đỡ về vật lực, tiền lực, xây dựng các nhà tình nghĩa, gây quỹ xoá nghèo… Như vậy, với phương pháp dân chủ, từ việc đóng góp đến triển khai xây dựng, nghiệm thu đưa vào sử dụng nhìn chung nhanh chóng, có chất lượng, tiết kiệm, và điều quan trọng là được nhân dân đồng thuận, không có khiến kiện về những việc dân trực tiếp bàn và quyết định.
Bằng nhiều phương thức, thông qua các tổ chức đoàn thể và Mặt trận tổ quốc như các “tổ hoà giải”, các hội nghị tổ dân phố, các cuộc tiếp xúc với đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, cử tri đã thẳng thắn đề cập, chất vấn như: giải quyết nước sạch, nước bẩn, việc kiểm tra, giám sát xây dựng các công trình bảo vệ môi trường, những hiện tượng tiêu cực về quản lý đất đai xây dựng, đầu tư, quản lý… Như vậy, việc yêu cầu các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, thành viên Hội đồng nhân dân phải báo cáo trước nhân dân về trách nhiệm hoạt động của mình đã không còn là những hiện tượng cá biệt, thụ động như trước; mặt khác cũng thể hiện trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị trước quyền lực của nhân dân.
Nguyên nhân của những thành công.
- Đảng bộ và nhân dân Hà Nội, chủ công là cấp uỷ đảng các cấp, Ban Tuyên giáo các cấp đã nhận thức được về cơ bản vị trí, vai trò quan trọng của công tác tư tưởng trên địa bàn phường, xã Hà Nội. Trên cơ sở đó Ban Tuyên giáo Thành uỷ đã tham mưu cho Thành uỷ đề ra các chỉ thị, thông tri, chương trình, kế hoạch đúng đắn về công tác tư tưởng. Cấp uỷ quận, huyện, phường, xã đã quán triệt các chỉ thị, thông tri, chương trình, kế hoạch ấy vào cuộc sống ở phường, xã Hà Nội. Như vậy, nguyên nhân này được hợp thành bởi 3 khâu gắn bó thống nhất với nhau là: nhận thức; lãnh đạo, chỉ đạo (ra nghị quyết, chỉ thị…) và tổ chức thực hiện (phát động phong trào của quần chúng, tổ chức và hướng dẫn quần chúng).
Trên cơ sở thống nhất về nhận thức, tư tưởng, dân cư trên địa bàn phường, xã Hà Nội đã xây dựng được tình cảm, niềm tin và ý chí quyết tâm thực hiện tốt các nghị quyết, chỉ thị, chương trình, kế hoạch… về công tác tư tưởng của cấp uỷ đảng và uỷ ban hành chính các cấp thành phố Hà Nội. Chính trong quá trình thực hiện đó nhân dân còn góp phần củng cố tổ chức; hoàn thiện nghị quyết, kế hoạch và chấn chỉnh đội ngũ cán bộ trong công tác tư tưởng trên địa bàn phường, xã Hà Nội. Như vậy, thực chất của nguyên nhân này là phát huy được dân chủ ở cơ sở, khơi dậy được lòng nhiệt tình, chí tiến lên và tài sáng tạo của nhân dân Hà Nội. Không làm được điều này thì mọi nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch, chương trình về công tác tư tưởng, dù hay đến mấy, cũng không thể biến thành hiện thực được.
Cùng với nguyên nhân trên, việc thực hiện khá tốt phương châm, phương hướng; đổi mới, tăng cường nội dung và các hình thức, phương pháp của công tác tư tưởng trên địa bàn phường, xã Hà Nội cũng là những nguyên nhân tích cực góp phần vào những thành công của công tác tư tưởng.
Thực hiện tốt phương châm toàn Đảng, toàn dân làm công tác tư tưởng đã góp phần khắc phục những khó khăn về cán bộ, kinh phí. Với phương hướng phục vụ việc hoàn thiện nhiệm vụ chính trị ở phường, xã Hà Nội, công tác tư tưởng đã đi đúng hướng. Với đổi mới và tăng cường nội dung, công tác tư tưởng đã góp phần đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng toàn diện của nhân dân Hà Nội. Với việc tăng cường, kịp thời đổi mới phương pháp, hình thức tuyên truyền, cổ động v.v…. Công tác tư tưởng trên địa bàn phường, xã Hà Nội cũng góp phần không nhỏ vào việc đáp ứng nhu cầu nhận thức, hiểu biết của nhân dân Hà Nội bằng nhiều kênh khác nhau, khắc phục được những nhược điểm cố hữu của các hình thức, phương pháp riêng rẽ, bảo đảm yêu cầu nhanh, nhạy, kịp thời trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, bùng nổ thông tin và đấu tranh tư tưởng gay gắt v.v…
- Tinh thần nhiệt tình, hăng say, cố gắng của đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng ở các cấp, trước hết là cấp cơ sở, cũng là nguyên nhân chủ yếu góp phần vào những thành công của công tác tư tưởng trên địa bàn phường, xã Hà Nội. Đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng ở phường, xã vừa thiếu, vừa yếu về chuyên môn, nghiệp vụ, thu nhập rất thấp v.v… nhưng nhờ cố gắng, có nhiệt tình nên một mặt, đã khắc phục được những khó khăn đó, mặt khác lại chủ động, tranh thủ được sự giúp đỡ của đội ngũ làm công tác tư tưởng cấp Trung ương và cấp thành phố, quận, huyện, đồng thời phối hợp với các cơ quan, nhất là các trường, viện đóng trên địa bàn… nên đã hoàn thành được nhiệm vụ, trách nhiệm của mình. Ngược lại, đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng các cấp trên cơ sở cũng tranh thủ, nhiệt tình, tích cực, khắc phục khó khăn về thời gian, về thù lao, về phương tiện v.v… để đến với cơ sở trong công tác tư tưởng. Không có sự nhiệt tình, cố gắng hai chiều ấy của đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng trên địa bàn phường, xã Hà Nội thì công tác tư tưởng không thể đạt được những thành tích kể trên.
Cuối cùng là những yêu cầu, những hối thúc khách quan của cơ chế thị trường, của đấu tranh tư tưởng – văn hoá, của bùng nổ thông tin, của phát triển khoa học – công nghệ, của mở cửa, hội nhập, toàn cầu hoá v.v… đã chuyển thành những thôi thúc nội tâm đẩy công tác tư tưởng vượt lên hoàn thành “sứ mệnh” của mình.
2.2. Những yếu kém và nguyên nhân.
1. Việc học tập, quán triệt nghị quyết một số cơ sở chưa sâu, dẫn tới một số lúng túng trong việc triển khai thực hiện, chưa phát huy tốt năng lực và tiềm năng dân chủ ở cơ sở. Thiếu sót này được biểu hiện cụ thể như sau:
- Việc học tập nghị quyết ở một số cơ sở mới dừng lại ở nghe phổ biến, truyền đạt nghị quyết (thông tin một chiều), chưa dành nhiều thời gian cho cán bộ, đảng viên thảo luận, như vậy là phát huy dân chủ trong học tập nghị quyết ở những nơi này chưa cao.
- Nhiều cơ sở chưa chú ý đến việc xây dựng chương trình hành động thực hiện nghị quyết; sau một đợt học tập trung coi như hoàn thành xong việc quán triệt nghị quyết. Một số cơ sở xây dựng được chương trình hành động nhưng lại thiếu kiểm tra, đánh giá, kiểm điểm việc thực hiện chương trình đó.
- Việc tổ chức phổ biến, quán triệt nghị quyết ở nhiều cơ sở còn thiếu chủ động, phụ thuộc vào việc mời báo cáo viên, ít được bí thư cấp uỷ trực tiếp nghiên cứu truyền đạt nghị quyết, nên hạn chế phần liên hệ những nội dung nghị quyết với thực tiễn đơn vị và đôi khi làm chậm tiến độ chung.
- Việc tổ chức tuyên truyền tới quần chúng còn lúng túng cả về nội dung và phương pháp.
2. Công tác tư tưởng ở phường, xã một số nơi chưa chủ động, chưa sắc bén trước những thực tế diễn ra nhanh và phức tạp, vừa biểu hiện dân chủ hình thức, vừa biểu hiện tình trạng vô chính phủ.
Trong quản lý đất đai và trật tự xây dựng, ở một số nơi vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề phức tạp. Vẫn còn hiện tượng nhân dân khiếu kiện vượt cấp, kéo dài xung quanh các vấn đề: quản lý tài chính, quản lý đất đai, trật tự xây dựng. Cá biệt có hiện tượng một số công dân lợi dụng dân chủ, có hành vi quá khích gây mất trật tự an ninh… mà công tác tư tưởng chưa kịp thời nắm bắt, vận động thuyết phục nhân dân. Vì thế, để nảy sinh tình hình phức tạp ở một số địa bàn. Nhiều tệ nạn như mại dâm, ma tuý, tham nhũng, ức hiếp nhân dân v.v… vẫn đang còn là vấn đề nhức nhối của Hà Nội.
Trong khi đó, hướng dẫn của cấp trên đối với cấp phường, xã để thực hiện các nghị quyết, chương trình, kế hoạch về công tác tư tưởng có lúc chưa kịp thời, thiếu cụ thể: chưa sâu sát, nhất là trong việc chỉ đạo giải quyết những vấn đề tư tưởng phát sinh ở cơ sở. Kết quả thăm dò dư luận xã hội cho thấy: có tới 47,2% số phiếu cho rằn lãnh đạo cấp trên thiếu kiểm tra đôn đốc. Việc tiếp thu ý kiến của dân cũng rất hạn chế: chỉ có 35,9% số phiếu cho rằng cấp trên thực sự cầu thị, có tiếp thu và sửa chữa thiếu sót, 41,1% có coi trọng ý kiến góp ý của dân nhưng lại chậm có biện pháp sửa chữa. Vẫn còn đến 16,2% số người được hỏi cho rằng cán bộ còn thờ ơ, xem nhẹ ý kiến đóng góp của nhân dân cá biệt có 4,7% số phiếu cho rằng cấp trên không tiếp thu, tìm cách đối phó, cứ để như cũ v.v…
3. Chưa phối hợp chặt chẽ, đồng bộ các nội dung cũng như các hình thức; các phương pháp và các lực lượng làm công tác tư tưởng.
Về nội dung: chưa đáp ứng được nhu cầu toàn diện về thông tin, hiểu biết của nhân dân. Kết quả thăm dò dư luận xã hội cho thấy: Công tác tư tưởng mới chỉ tập trung vào một số lĩnh vực nhất định như phòng chống tệ nạn xã hội (đạt 76,5%), thời sự – chính trị (đạt 64,9%), pháp luật mới (đạt 64,8%)m, khoa học – kỹ thuật (đạt 37,1%), quản lý kinh tế (đạt 26,6%), các loại thông tin khác còn rất ít như: tuyên truyền đạo đức, gương người tốt, việc tốc, phê bình cán bộ, đảng viên, xử lý kỷ luật. Riêng về thực hiện dân chủ ở cơ sở cũng đang là vấn đề của công tác tư tưởng. Kết quả điều tra xã hội học cho thấy, mới chỉ có 25,7% phiếu cho là nghiêm túc, 56,8% số phiếu cho là có tiến bộ hơn trước, song còn hạn chế. Vẫn còn tới 14,5% số phiếu cho là hình thức và mất dân chủ. Như vậy công tác tư tưởng đối với vấn đề thực hiện dân chủ ở phường, xã Hà Nội vẫn còn cần được nâng cao hơn nữa… Bản thân nội dung của công tác tư tưởng thường được thực hiện tách rời nhau, chưa có sự gắn bó chặt chẽ ở cả ba khâu: hướng dẫn, nắm bắt và giải quyết. Chính sự tách rời nhau như vậy làm cho chất lượng của công tác tư tưởng chưa cao, lúng túng nhất là khi giải quyết những vấn đề tư tưởng, những “điểm nóng mới nảy sinh”. Đó cũng là lý do mà các đề xuất, các biện pháp giải quyết những vấn đề này chưa được đánh giá với số phiếu cao. Điều tra xã hội học cho thấy, trong hội nghị thì nhất trí, ra ngoài lại nói khác vẫn còn với các mức có nhiều (13,5%), có ít (47,9%); viết thư nặc danh, gây mất đoàn kết cũng vẫn còn, có nhiều (1,8%), có ít (22,9%).
Về các hình thức và phương pháp: Phần lớn là theo các hình thức và phương pháp “cổ truyền”, nhưng lại chưa đầy đủ về “cái tâm”, cái “tầm” nên chất lượng chưa cao. Về bề nổi có lúc phô trương “trống rong cờ mở”, nhưng kết quả lại chưa tương xứng với hình thức, nhất là với các “phong trào” chống tham nhũng, tự phê bình và phê bình, thực hiện công khai về tài chính ở cơ sở; nêu gương người tốt việc tốt còn ít và chưa sâu, chưa thuyết phục.Chưa đầu tư thoả đáng vào việc nghiên cứu tổng kết, rút ra những bài học kinh nghiệm từ các điển hình làm tốt, cũng như những tồn tại yếu kém để phổ biến ra diện rộng. Gần đây đã thực hiện một số hình thức mới như đối thoại trực tiếp, thăm dò dư luận xã hội bằng phiếu điều tra, hộp thư truyền hình, tiểu phẩm văn nghệ, các cuộc thi và trò chơi trên vô tuyến v.v… nhưng nội dung chưa thật hấp dẫn.
Về phối hợp các lực lượng làm công tác tư tưởng cũng còn một số thiếu sót cần khắc phục: công tác tư tưởng ở cấp phường, xã mới chỉ phát huy được ở nơi chi bộ, đảng bộ đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh. Vai trò giáo dục chính trị, tư tưởng của đoàn thanh niên, đội thiếu niên tiền phong ở cấp phường, xã là yếu và hoạt động còn lúng túng.
Nguyên nhân của những yếu kém, khuyết điểm.
Trước hết, mức độ nhận thức về vị trí, vai trò và ảnh hưởng của công tác tư tưởng đối với các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội của cấp uỷ, của cơ quan tuyên giáo các cấp, của toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân Hà Nội chưa đều. Cấp cơ sở - đảng bộ phường, xã Hà Nội, trước hết là cấp uỷ và Ban Tuyên giáo phường, xã là chủ thể trực tiếp của công tác tư tưởng trên địa bàn phường, xã. Họ vừa là người phải quán triệt các nghị quyết của Trung ương, của Thành uỷ, quận, huyện uỷ về công tác giáo dục chính trị – tư tưởng; vừa là người phải tổ chức thực hiện các nghị quyết đó ở địa bàn mà họ phụ trách trên cơ sở đề ra các biện pháp, phát động phong trào vận động chính trị – tư tưởng phù hợp với tình hình địa phương của họ. Vì vậy, nếu nhận thức về vị trí, vai trò của công tác giáo dục chính trị – tư tưởng chưa đến nơi, chưa đúng tầm (chưa nói là nhận thức sai, lạc) thì sẽ không thấy hết trách nhiệm của chủ thể, dẫn tới coi thường, sao lãng công tác này (thường được coi là công tác phụ “chưa chết ai”…). Kết quả tất yếu là công tác giáo dục chính trị – tư tưởng của các đảng bộ xã, phường Hà Nội trong những năm vừa qua chất lượng chưa cao như báo cáo đã nêu.
Hai là, mức độ quan tâm về công tác tư tưởng ở phường, xã của cấp trên - đảng uỷ Ban tuyên giáo quận, huyện, thành phố cũng ảnh hưởng nhiều tới kết quả của công tác tư tưởng. Một trong nhiều nguyên nhân cần phải khắc phục là “công tác chỉ đạo, kiểm tra của quận uỷ chưa được quan tâm đúng mức, chưa có yêu cầu cơ sở phải báo cáo kết quả nhận thức của đảng viên sau khi học tập nghị quyết”, hay vì chưa quan tâm, chỉ thị, chương trình, kế hoạch về công tác tư tưởng của huyện uỷ, quận uỷ đối với cấp phường, xã chưa kịp thời, thiếu cụ thể và chưa phù hợp với tình hình địa phương… Mức độ quan tâm của cấp trên đối với công tác tư tưởng ở phường, xã còn được thể hiện ở việc các đồng chí lãnh đạo chủ chốt có thường xuyên xuống cơ sở gặp gỡ, trao đổi với nhân dân hay không. Có thể kết luận chung là cán bộ cấp trên có xuống cơ sở để nắm bắt tình hình của công tác tư tưởng và tư tưởng của nhân dân nhưng còn ít và không đều. Những nguyên nhân vừa nêu là những nguyên nhân chủ quan từ phía cấp trên gây ra những thiếu sót và khuyết điểm của công tác tư tưởng trên địa bàn phường, xã Hà Nội thời gian qua.
Ba là, chưa kịp thời trong việc phát hiện (nắm bắt) và giải quyết những nguyên nhân sâu xa của tư tưởng mới nảy sinh.
Nguyên nhân sâu xa của vấn đề tư tưởng nảy sinh ở phường, xã dẫn tới bất bình, khiếu kiện vượt cấp, không chấp hành nghiêm luật pháp và quyết định của cấp uỷ chính quyền Nhà nước, thậm chí “chống lại ngấm ngầm”, loại trừ một số “cò mồi”, lại là những vấn đề lợi ích, nhất là lợi ích kinh tế của dân không được đảm bảo hoặc là chưa bình đẳng. Vấn đề vừa trước mắt, vừa lâu dài, có ảnh hưởng lớn tư tưởng là vấn đề việc làm cho số dân Hà Nội ngày càng tăng, cả tăng sinh sản và tăng cơ học. Cuối cùng nằm trong vấn đề này là sự thiếu gương mẫu, tranh thủ hưởng lợi và tham nhũng của một bộ phận cán bộ có chức, có quyền trên địa bàn phường, xã Hà Nội; nghĩa là có cả cán bộ phường, xã và có cả cán bộ cấp trên thường trú ở phường, xã Hà Nội. Đó chính là những nguyên nhân sâu xa về kinh tế – chính trị – xã hội… của những vấn đề tư tưởng thường xuyên nảy sinh cần phải được khắc phục.
Bốn là, những nguyên nhân thuộc đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng ở phường, xã, về tổ chức cơ chế và chính sách, chế độ thực hiện công tác tư tưởng.
Đa số cán bộ công tác tư tưởng có bản lĩnh chính trị vững vàng, sống lành mạnh, tỉnh táo trong những bước ngoặt cách mạng và có tâm huyết, nhưng phần đông cán bộ công tác tư tưởng vừa chưa sâu về chuyên ngành, vừa chưa rộng về kiến thức chung. Thiếu nhiều cán bộ đầu đàn trong lĩnh vực lý luận chính trị cũng như cán bộ làm công tác tư tưởng giỏi chưa nhiều. Tình trạng chung của đội ngũ cán bộ công tác tư tưởng là “đông mà chưa mạnh”.
Phần lớn đội ngũ cán bộ công tác tư tưởng cấp phường, xã Hà Nội chưa được thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận và nghiệp vụ trong khi thực tiễn không ngừng đổi mới đặt ra những yêu cầu ngày càng cao. Có những cán bộ từ khi ra công tác ít khi được bồi dưỡng các kiến thức hiện đại của nhân loại, để kế thừa hạt nhân hợp lý, đồng thời có cơ sở khoa học trong đấu tranh tư tưởng – lý luận. Đó là chưa kể đến một số không nhỏ trong đội ngũ cán bộ công tác tư tưởng ở phường, xã Hà Nội chưa đạt trình độ nghiệp vụ. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ công tác tư tưởng ở cấp phường, xã Hà Nội đang đứng trước tình trạng hụt hẫng, lại chưa có hướng dẫn chính thức của cấp trên về mô hình, tiêu chuẩn, điều kiện hoạt động…
Về tổ chức cơ chế: đa số ý kiến tham luận tại hội thảo khoa học ở cấp quận, huyện, cũng như ở cấp thành phố đều cho rằng bộ phận làm công tác tuyên giáo ở phường, xã Hà Nội đều chưa rõ về mặt tổ chức, tạm gọi là Ban Tuyên giáo, thế nhưng biên chế, cơ chế hoạt động chưa làm rõ ràng, nên chế độ trách nhiệm, phân công cũng chưa dứt khoát. Do đó ít thấy có chương trình, kế hoạch hành động chặt chẽ. Chế độ báo cáo cũng chưa thường xuyên.
Về chính sách, chế độ: kinh phí hoạt động cho công tác tư tưởng ở phường, xã còn quá ít. Các phương tiện thông tin, tuyên truyền, cổ động và những phương tiện làm việc khác ở phường, xã cũng chưa đáp ứng được yêu cầu vì phần lớn đã cũ kỹ và lạc hậu.
2.3. Phương hướng và giải pháp cơ bản đổi mới công tác tư tưởng ở cơ sở.
2.3.1. Phương hướng:
Đổi mới công tác tư tưởng phải hướng tới mục tiêu làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin – tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành chủ đạo trong đời sống tinh thần ở cơ sở; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội, đổi mới cả về nhận thức và tổ chức gắn với phương thức hoạt động theo cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân thực sự phải là đại diện chủ động, tích cực cùng nhân dân là chủ các quá trình kinh tế – xã hội diễn ra ở địa phương. Tư tưởng và công tác tư tưởng không có mục đích tự thân. Làm công tác tư tưởng không phải vì tư tưởng mà vì cái cơ sở, nền tảng mà trên đó tư tưởng tồn tại. Cho nên, công tác tư tưởng phải tạo ra sức mạnh vật chất và trở thành sức mạnh vật chất.
- Đổi mới công tác tư tưởng ở cơ sở phải hướng tới xây dựng và củng cố hệ thống chính trị mà trước hết là ổn định chính trị. Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế. Không có sự ổn định chính trị thì cũng không có sự phát triển bền vững về kinh tế. ổn định chính trị mới tạo ra sự phát triển kinh tế, ngược lại kinh tế phát triển bền vững tạo cơ sở cho ổn định chính trị từ cơ sở. Đây là một biện chứng thực tiễn chính trị và kinh tế.
- Đổi mới công tác tư tưởng, phát huy dân chủ, xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở phải hướng tới dân chủ hoá các quá trình kinh tế – xã hội, thực hiện dân chủ gắn với pháp chế, gắn với kỷ cương trong tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị, trong mọi hoạt động của nhân dân diễn ra ở địa phương.
2.3.2. Giải pháp đổi mới công tác tư tưởng ở cơ sở Hà Nội hiện nay.
2.3.2.1. Nâng cao sự nhận thức và tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý công tác tư tưởng của các cấp uỷ.
Nhận thức chưa đều, tinh thần trách nhiệm chưa thường xuyên, còn yếu về năng lực lãnh đạo của nhiều cấp uỷ cơ sở trong công tác tư tưởng trên địa bàn… chính là nguyên nhân và là cán bộ đang đặt ra cần khắc phục nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng ở phường, xã Hà Nội hiện nay. Để khắc phục nguyên nhân, giải quyết vấn đề đầu tiên này cần có những giải pháp dưới đây:
- Trước hết, đòi hỏi cán bộ, đảng viên, trọng tâm là cấp uỷ đảng phải thường xuyên trau dồi, học tập lý luận, quán triệt thực chất các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, của Thành uỷ, quận, huyện uỷ về giáo dục chính trị – tư tưởng và về các mặt khác của đời sống, xã hội.
- Tăng cường sự lãnh đạo và quản lý công tác tư tưởng nhằm phát huy tính tích cực trước yêu cầu của sự đổi mới, góp phần thực hiện tốt hơn các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Thực chất của vấn đề là thúc đẩy tiến trình để đổi mới hơn, dân chủ hơn. Nói cách khác, muốn ổn định và đổi mới thành công, muốn dân chủ hơn nữa mà không chệch hướng, thì phải tăng cường sự lãnh đạo và quản lý công tác tư tưởng ngay từ cơ sở.
Muốn quản lý tư tưởng cần xây dựng quy chế, cơ chế quản lý cụt hể đối với công tác tư tưởng (như quản lý các hoạt động trong các hội nghị, các diễn đàn, kể cả các câu lạc bộ cũng như sinh hoạt trong các tổ chức đoàn thể và khi thực hiện đối thoại…). Có vậy mới đảm bảo sự tự do tư tưởng, dân chủ trong sinh hoạt, nhưng cũng đảm bảo thống nhất trong nguyên tắc sinh hoạt… tránh tình trạng lợi dụng dân chủ, lợi dụng tự do tư tưởng gây xáo động, hoài nghi…
Cần khẳng định dứt khoát rằng: thực hiện thông tin có định hướng, có quản lý, nhằm nâng cao trình độ và chất lượng công tác tư tưởng của toàn Đảng là khâu quyết định đối với vấn đề nâng cao trình độ tư tưởng của toàn dân. Và do đó: tăng cường sự lãnh đạo và quản lý công tác tư tưởng là giải pháp quan trọng, quyết định hiệu quả công tác tư tưởng.
2.3.2.2. Tăng cường công tác nắm bắt đời sống tư tưởng và ý kiến, nguyện vọng của nhân dân diễn ra hàng ngày.
Làm công tác tư tưởng, trước hết và cơ bản nhất là phải nắm cho được thực chất đời sống tư tưởng của dân. Người làm công tác tư tưởng phải nắm được sự phản ứng nhiều chiều của nhân dân trước các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, của các cấp uỷ và chính quyền cơ sở.
Để nắm vững đời sống tư tưởng của dân thì phải nắm bắt những khó khăn, thuận lợi đời sống vật chất của họ.
Làm công tác tư tưởng ở cơ sở, phải nắm cho được ở cơ sở mình có bao nhiêu hộ giàu, bao nhiêu hộ khá, bao nhiêu hộ nghèo. Phải hiểu cho được nguyên nhân tại sao giàu, tại sao nghèo; từ đó có biện pháp giúp đỡ hữu hiệu. Giúp như thế nào để họ – từ đó biết tự xoá nghèo, tự vươn lên làm giàu, nghĩa là họ biết “tự cứu”.
Khi nắm bắt đời sống tinh thần ở cơ sở, người làm công tác tư tưởng phải nắm và đánh giá chính xác, cụ thể: lối sống, đạo đức, sinh hoạt văn hoá, văn nghệ, thông tin, quan hệ người với người nói chung và quan hệ “giới” nói riêng v.v… để có hướng giải quyết phù hợp. Như vậy, công tác tư tưởng không tự cho phép mình hoạt động chung chung trừu tượng, thiếu cụ thể, không sát hợp tình hình ở cơ sở.
Công tác tư tưởng còn phải nắm xu hướng của tâm trạng quần chúng ở cơ sở. Nắm cụt hể từ miếng cơm, manh áo… của người dân, nhưng phải biết phân tích cái cụ thể, cái đời thường để khái quát lên, rút ra xu hướng vận động.
Nắm tâm trạng của quần chúng là quan trọng nhưng điều quan trọng hơn là phải “bắt” cho được đằng sau tâm trạng đó là cái gì, nói lên điều gì, xu hướng phát triển như thế nào… thì “ẩn số” những bài toán của công tác tư tưởng mới được “giải”.
Việc nắm bắt ý kiến, nguyện vọng của nhân dân diễn ra từng ngày là việc làm thường xuyên và rất quan trọng của công tác tư tưởng ở cơ sở. Để tránh bệnh quan liêu ngay từ cơ sở (đừng chủ quan rằng: ở cơ sở mà không mắc bệnh quan liêu, xa dân) thì, phải biết dân đang suy nghĩ gì, có ý kiến nguyện vọng gì trên các vấn đề của đất nước, địa phương và của thế giới. Những ý kiến, nguyện vọng đó phải được phân loại, phân tích, đánh giá khách quan. Trong hệ thống ý kiến nguyện vọng của nhân dân có những ý kiến nào độc đáo, đặc biệt, kể cả những ý kiến “trái tai” cũng được nghiên cứu với thái độ khoa học nghiêm túc. Biết đâu từ một vài ý kiến đặc biệt này có thể giúp những người làm công tác tư tưởng mở ra những “đột phá” trên trận địa này. Và từ đột phá “mắt khâu” có thể cho ta giải pháp cả “mạng lưới” tư tưởng. Thiết nghĩ, đây là một phương pháp khoa học của công tác tư tưởng vốn là một khoa học.
Cần xây dựng cơ chế để nắm bắt kịp thời ý kiến, nguyện vọng của nhân dân. Cơ chế yêu cầu:
Một là, tất cả các cán bộ, đảng viên dù ở cấp nào đều phải sinh hoạt ở chi bộ dân cư, nơi mình sinh sống. Hình thức này vừa để dân giám sát cán bộ đảng viên và cán bộ đảng viên gần dân và hiểu dân. Cách thức sinh hoạt cần phù hợp với yêu cầu và thời gian công tác. Làm như vậy để tăng quan hệ đảng viên với nơi cư trú và dân giám sát cán bộ đảng viên tốt hơn.
Hai là, phải quy định lượng thời gian vật chất để cán bộ các cấp đi thực tế cơ sở trực tiếp gặp gỡ, đối thoại, sinh hoạt đời thường với nhân dân, xem họ ăn gì, họ sống như thế nào. Việc đi thực tế của cán bộ hiện nay phổ biến còn theo “cơ chế” báo trước để “đón rước” và “thay đổi địa điểm nghe báo cáo” xem ra ít sức thuyết phục. Cần đổi mới cách đích và phải xem đi cơ sở là nội dung công tác bắt buộc của tất cả cán bộ các cấp, kể cả cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước.
Ba là, xây dựng và thực hiện tốt chế độ quần chúng phê bình lãnh đạo Đảng, Nhà nước, chính quyền các cấp. Phê bình tư cách của cán bộ đảng viên. Đây là việc làm rất khó đối với chúng ta, khi ảnh hưởng ý thức hệ phong kiến, nông dân còn nặng nề, dân trí chưa cao không chỉ ở nhân dân cơ sở mà ở cả cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước. Phê bình liệu có được gì hay bị phân biệt đối xử, chuốc hoạ vào thân v.v… và v.v… Thiết nghĩ, dù khó như thế nào nhưng vẫn phải làm để Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp trong sạch hơn.
Bốn là, khi nhân dân đã có ý kiến, nguyện vọng phản ánh thì phải có sự phản hồi, tiếp thu. Trong trả lời phải nói rõ, cái gì làm được, cái gì không làm được, lý do? Sự phản hồi, tiếp thu cũng phải quy định có thời gian nhất định, có trách nhiệm rõ ràng chứ không được để diễn ra im lặng, lãng quên.
2.3.2.3. Đa dạng hoá các hình thức nắm bắt thực tiễn cơ sở, nắm bắt ý kiến, nguyện vọng của nhân dân.
Cuộc sống ở cơ sở phong phú đa dạng, tư tưởng của nhân dân ở cơ sở cũng rất phong phú, đa dạng, nhạy cảm thì cách nắm bắt tư tưởng của nhân dân cũng phong phú, đa dạng. Các hình thức nắm bắt có thể là:
Thông qua gặp gỡ trực tiếp, tiếp xúc, đối thoại với các tầng lớp nhân dân, đối thoại cá nhân. Qua đối thoại, cán bộ thông tin đến dân, nhưng cũng là để nắm thông tin từ dân.
Thông qua đóng góp ý kiến của nhân dân: bằng báo chí đưa ra những ý kiến này có thể có địa chỉ và không địa chỉ.
Thông qua kênh dư luận xã hội: không có gì phong phú, đa chiều, đa dạng và phức tạp bằng “dư luận xã hội”. Chính nơi đây, tư tưởng con người bộc lộ: cấp độ tư tưởng, tính chất tư tưởng, sự biến dạng của tư tưởng. Thông qua kênh “dư luận xã hội”, công tác tư tưởng có thể nắm bắt được “bản thân” đời sống tư tưởng.
Thông qua các lớp học chính trị, quán triệt nghị quết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, qua các buổi thảo luận, thu hoạch của học viên…
Thông qua sinh hoạt của các tổ chức Đảng, Nhà nước. Đây là kênh chính thống, quan trọng để nắm bắt thực tiễn, nắm bắt ý kiến, nguyện vọng của nhân dân.
Thông qua những cuộc giao ban định kỳ công tác tư tưởng ở các ngành, các cấp: về nội dung và hình thức, những cuộc giao ban có thể giúp công tác tư tưởng nắm khái quát tình hình ở nhiều địa phương cơ sở đã diễn ra. Song, điều quan trọng hơn nhiều của công tác tư tưởng là phải chủ động nắm bắt điều sẽ xảy ra…
2.3.2.4. Đổi mới công tác thông tin ở cơ sở.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, trước hết những biến đổi to lớn của tình hình thứ giới và sự diễn biến phức tạp của tình hình trong nước, đổi mới công tác thông tin ở cơ sở là yêu cầu tất yếu, là nhu cầu bức xúc của sự nghiệp cách mạng.
Đổi mới công tác thông tin ở cơ sở cần chú ý:
- Thứ nhất, đảm bảo quyền được thông tin của cán bộ đảng viên và nhân dân: yêu cầu thông tin của nhân dân hiện nay là rất đa dạng: thông tin trong nước và quốc tế, thông tin kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, khoa học – công nghệ…; và nhất là những thông tin cụ thể có quan hệ đến cuộc sống hàng ngày ở từng cơ sở.
- Thứ hai, đảm bảo thực hiện thông tin nhiều chiều: từ trên xuống, từ dưới lên, thông tin chéo của ngành, khu vực… nằm làm cho các chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ xuống tận người dân đồng thời ý kiến, nguyện vọng của người dân ở cơ sở đến với Đảng, Chính phủ.
- Thứ ba, đảm bảo thông tin phản ánh trung thực hiện thực khách quan.
Hiện thực khách quan đầy mâu thuẫn, phong phú và phức tạp: thuận lợi có, khó khăn có, cái được có, cái chưa được có, thành công xen lẫn với những thất bại, sai lầm v.v… Tất cả đều phải được thông tin đầy đủ, chính xác. Không được cắt xén thông tin. Không được tô hồng mặt mày, bôi đen mặt kia theo ý đồ chủ quan, tuỳ thiện. Chính từ những thông tin khách quan, trung thực này làm cho công tác tư tưởng có sức thuyết phục cao, khơi dậy được ý chí, bản lĩnh, sức mạnh của người dân ở cơ sở. Ngược lại, thông tin thiếu trung thực, cắt xén, một chiều, đơn điệu chỉ làm giảm lòng tin của dân với Đảng, Nhà nước. Tất niên đã thông tin thì phải biết định hướng thông tin.
2.3.2.5. Đổi mới hoạt động công tác tư tưởng của các đoàn thể nhân dân, phát huy dân chủ ở cơ sở.
Nói đến hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay phải kể đến các tổ chức chính trị – xã hội như: Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn lao động, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội nông dân, Hội Cựu chiến binh… Đó là những đoàn thể có vai trò to lớn trong đời sống chính trị xã hội của đất nước.
Đổi mới hoạt động các đoàn thể nhân dân làm tốt công tác tư tưởng, xây dựng và củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở cần tập trung vào những vấn đề sau:
Một là, về nhận thức, cần đặt đúng vị trí các đoàn thể nhân dân trong hệ thống chính trị hiện nay. Chỉ đặt đúng vị trí thì mới phát huy hết vai trò, sức mạnh của nó.
Hai là, nâng cao năng lực hoạt động của các đoàn thể nhân dân tương xứng với vai trò làm chủ của mình. Các cán bộ đoàn thể được đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ đặc thù của đoàn thể mình trên nền chung về học vấn.
Thứ ba, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động công tác tư tưởng của các đoàn thể nhân dân phù hợp với nội dung đổi mới kinh tế xã hội ở cơ sở.
Thứ tư, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, thực hiện tốt phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, phát huy bản sắc truyền thống dân tộc, truyền thống Hà Nội ngàn năm văn hiến, xây dựng con người Hà Nội văn minh, thanh lịch, hiện đại.Công tác tư tưởng gắn với các nội dung thi đua phải thiết thực gắn liền với nghĩa vụ và quyền lợi của nhân dân đồng thời gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ chỉ tiêu kinh tế – xã hội của địa phương. Thi đua vừa là động lực, vừa là biện pháp cơ bản để làm tốt công tác tư tưởng và ngược lại.
Thứ năm, cải cách chế độ chính sách đãi ngộ đối với cán bộ đoàn thể nhân dân, tạo động lực vật chất cho những hoạt động tư tưởng của các tổ chức này.
2.3.2.6. Đẩy mạnh phát huy dân chủ gắn liền với kỷ cương, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở để thực hiện tốt công tác tư tưởng ở cơ sở.
Vấn đề dân chủ và kỷ cương là hai mặt của một vấn đề. Để đảm bảo dân chủ trên thực tế, cần quán triệt và tuyên truyền rộng rãi một nguyên tắc bất dịch, đó là: phát triển dân chủ phải đặt trong tính thống nhất chặt chẽ với kỷ luật, kỷ cương pháp luật.
Theo hướng đó, có thể nêu ra một số nhiệm vụ và giải pháp nhằm phát huy dân chủ và thực hiện pháp chế ở cơ sở như sau:
Một là, quán triệt nhất quán vấn đề phát huy dân chủ phải gắn thực hiện đúng nguyên tắc: phát huy dân chủ và giữ vững kỷ cương trước hết phải được thực hiện ở trong tất cả các tổ chức cơ sở Đảng và toàn bộ hệ thống chính trị cơ sở, mà cốt lõi của vấn đề là thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trên thực tế chứ không phải trên văn bản hay trên diễn đàn. Trước hết, đồng chí Bí thư, đồng chí thủ trưởng phải nêu cao nguyên tắc này.
Hai là, thực hiện dân chủ rộng rãi trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây là vấn đề đòi hỏi đáp ứng yêu cầu thực tiễn đang diễn ra ở địa phương. Thực hiện dân chủ đầy đủ theo đúng nghĩa của nó trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội ở cơ sở địa phương, gắn với đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, nâng cao dân trí và pháp luật, đồng thời thực hiện nghiêm kỷ cương pháp luật gắn với thực hiện quy chế dân chủ một cách thường xuyên, rộng rãi, tránh hình thức. Nội dung và phương pháp để thực hiện dân chủ trên các lĩnh vực trên, có thể tóm tắt như sau:
+ Dân chủ trên lĩnh vực kinh tế, điều này đảm bảo cho mọi người, mọi tổ chức và thành phần kinh tế tự do sản xuất – kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật;
+ Dân chủ về chính trị – nội dung chủ yếu là bảo đảm quyền làm chủ về ứng cử, bầu cử, đảm bảo hoạt động của Hội đồng nhân dân thực sự là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương; tổ chức cho nhân dân tham gia góp ý, lựa chọn cán bộ và đấu tranh chống các biểu hiện đặc quyền, đặc lợi, trù dập, thiếu công bằng v.v…; đẩy mạnh hình thành các tổ chức tự quản mới ở thôn xóm, cụm dân cư bên cạnh các tổ chức tự quản đã có; tăng cường giáo dục pháp luật, thực hiện pháp luật và quy chế địa phương…;
+ Dân chủ trên lĩnh vực văn hoá xã hội: vấn đề chủ yếu là phát huy quyền làm chủ của nhân dân gắn với cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá, bài trừ gắn với cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá, bài trừ những tệ nạn xã hội như ma tuý, mại dâm, cờ bạc, rượu, chè bê tha, mê tín dị đoan…
2.3.2.7. Củng cố tổ chức, định hình cơ chế đánh giá của Ban Tuyên giáo phường, xã và xác định trách nhiệm trong công tác tư tưởng.
Cần đổi mới công tác tư tưởng theo phương thức bám sát cơ sở coi nơi đây là địa bàn hoạt động trung tâm. Bởi chính nơi đây mới là nơi trực tiếp sát dân, nơi trực tiếp phát sinh những diễn biến tư tưởng, trạng thái tam lý của nhân dân. Với phương thức này, công tác tư tưởng mới thực sự có điểm xuất phát; mới có đối tượng trực tiếp; mới thực sự khắc phục được tình trạng làm công tác tư tưởng hình thức, chung chung, xa rời thực tiễn và không bỏ trống “trận địa tư tưởng”.
Công tác tư tưởng là công tác của toàn Đảng, toàn dân. Do vậy, tất cả các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể, cán bộ đảng viên phải làm công tác tư tưởng theo trách nhiệm và lĩnh vực công tác của mình, trước hết là cấp uỷ, mà đồng chí Bí thư phải trực tiếp chỉ đạo – “tổng chỉ huy” trên mặt trận tư tưởng.
Kinh nghiệm cho thấy, ở đâu cấp uỷ đề cao trách nhiệm và có năng lực lãnh đạo công tác tư tưởng, thì ở đó có những điều kiện thuận lợi để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng.
Để đổi mới, hoàn thiện hệ thống công tác tư tưởng và nâng cao chất lượng hoạt động công tác tư tưởng ở cơ sở:
Trước hết, phải củng cố các Ban Tuyên giáo ở mọi ngành, mọi cấp, bố trí đủ số lượng cán bộ đã được bồi dưỡng theo hướng chuẩn hoá; xác đỉnh õ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; định rõ quyền hạn nhiệm vụ của trưởng, phó ban và các thành viên.
Thứ hai, cần có cơ chế đủ mạnh để thu hút đội ngũ cán bộ giỏi chuyển sang làm nghề tuyên giáo, khắc phục tình trạng cán bộ luân chuyển không sâu chuyên môn; đồng thời cần có chiến lược đào tạo cán bộ tuyên giáo theo hướng chính quy và phải được coi là “nghề đặc biệt”.
Thứ ba, cần xây dựng kế hoạch công tác năng động, có cơ chế hoạt động giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị và các “binh chủng” công tác tư tưởng.
Thứ tư, vừa củng cố mô hình ban tuyên giáo cơ sở, vừa tiếp tục tìm ra mô hình mới hợp lý, đủ điều kiện, phương tiện để tiến hành công tác tư tưởng. Chăm lo công tác bồi dưỡng, đào tạo, quy hoạch cán bộ.
Thứ năm, Ban tuyên giáo phải thực sự là cơ quan tham mưu cho cấp uỷ, là lực lượng thường trực nòng cốt trên mặt trận tư tưởng – văn hoá, đồng thời chỉ đạo, hướng dẫn và thường xuyên kiểm tra hoạt động công tác tư tưởng trên địa bàn.
C. Phần kết luận
Bước vào thời kỳ đổi mới Hà Nội có bước phát triển nhanh và mạnh xứng đáng là thủ đô của cả nước – sắp tiến tới 1000 năm Thăng Long. Tất cả những thành tựu đạt được là kết quả của sự lãnh đạo sáng suốt duy nhất của Đảng, sự nỗ lực của đông đảo quần chúng nhân dân và đặc biệt có vai trò quan trọng của công tác tư tưởng mà Đảng bộ thành phố đã và đang tiến hành.
Trong những năm quan công tác tư tưởng đã góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thủ đô. Đưa các lĩnh vực của đời sống xã hội hoạt động theo đúng quỹ đạo của mình. Cùng với cả nước, Đảng bộ Thành phố luôn xác định phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Công tác tư tưởng đã hướng về cơ sở truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước hướng dẫn nhân dân thực hiện đường lối đồng thời tháo gỡ nhiều vướng mắc trong đời sống trong xã hội. Qua đó làm cho lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước tăng lên sự đồng thuận trong xã hội trở nên rõ ràng. Các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội vì vậy đã được thực hiện đạt và vượt chỉ tiêu.
Nhưng đứng trước những biến đổi sâu sắc từ thực tiễn đời sống xã hội. Từ nhiệm vụ xây dựng thủ đô giàu mạnh, văn minh, tiến bộ đòi hỏi công tác tư tưởng phải có bước phát triển mới. Tức là nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của công tác tư tưởng trên địa bàn thành phố. Muốn vậy, trong những năm tới chúng ta cần thiết phải thực hiện các giải pháp cơ bản sau:
- Nâng cao sự nhận thức và tăng cường sự lãnh đạo chỉ đạo, quản lý công tác tư tưởng của các cấp uỷ.
- Tăng cường công tác nắm bắt đời sống tư tưởng và ý kiến nguyện vọng của nhân dân.
- Đa dạng hoá các hình thức nắm bắt thực tiễn ở cơ sở, nắm bắt ý kiến nguyện vọng của nhân dân.
- Đổi mới công tác thông tin ở cơ sở.
- Đổi mới hoạt động công tác tư tưởng của các đoàn thể nhân dân phát huy dân chủ ở cơ sở.
- Đẩy mạnh phát huy dân chủ gắn liền với kỷ cương, thực hiện tốt các quy chế dân chủ ở cơ sở để thực hiện tốt công tác tư tưởng ở cơ sở.
- Củng cố tổ chức, định hình cơ chế hoạt động của Ban Tuyên giáo phường, xã và cần xác định trách nhiệm trong công tác tư tưởng.
Thời kỳ mới với những thời cơ và thách thức đan xen, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng chúng ta sẽ tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức để đưa sự nghiệp đổi mới của Thủ đô phát triển cao hơn và công tác tư tưởng là nhân tố chính trong sự nghiệp đó.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Đào Duy Quát: Về công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
2. Nguyễn Đức Bình: Một số vấn đề về công tác lý luận tư tưởng và văn hoá, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
3. Nguyễn Viết Thông: Công tác tư tưởng trong quá trình đổi mới đất nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí Thông tin công tác tư tưởng lý luận, số 5 năm 2005.
4. Lương Khắc Hiếu: Nguyên lý công tác tư tưởng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
5. Ban Tuyên giáo Thành uỷ Hà Nội: Báo cáo tổng kết công tác tuyên truyền năm 2004, phương hướng nhiệm vụ năm 2005, Hà Nội, 2004.
6. Trần Đức Lương: Kiên định đường lối đổi mới Việt Nam vững bước tiến vào thế kỷ XXI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
Có thể bạn muốn biết?
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét