Khai thác những giá trị của Nho giáo trong việc xây dựng và củng cố hệ thống chính trị
Chủ Nhật, 13 tháng 11, 2016
Khai thác những giá trị của Nho giáo trong việc xây dựng và củng cố hệ thống chính trị
Chương I : Nho giáo và những tư tưởng của nho giáo về vấn đề chính trị
1.1.
Quá trình du nhập của nho giáo vào việt nam .
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời và cơ sơ xã hội của sư tồn tại và phát
triển của nho giáo
1.1.2.Sự du nhập của nho giáo vào việt
nam.
1.2.
Tư tưởng chính trị trong học thuyết nho giáo
Chương
II: khai thác những giá
trị của nho giáo trong việc xây dựng và củng cố hệ thống chính trị
2.1
. Khai thác những yếu tố tích cực của tư tưởng nho giáo trong
việc xây dựng và củng cố hệ thống chính trị
2.2
. Khác phục những hạn chế của tư tưởng nho giáo trong chính
trị và ảnh hưởng của nó đến việt nam .
A. mở đầu
1.Tính
cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Nhiều năm qua trên thế giới nói
chung và việt nam nói riêng đã có những chuyển biến về cả lĩnh vực kinh tế cũng
như chính trị và xã hội . Trong lĩnh vực chính trị , các quốc gia tự lựa chọn
cho mình con đường phát triển. Đặc biệt, sau sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ
nghĩa ở Liên xô và các nước Đông Âu, xu hướng hợp tác phát triển mọi lĩnh vực
càng được quan tâm và mở rộng. Mà vấn đề trọng tâm quan trọng đặt ra đối với
mỗi quốc gia chính là xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước, củng cỗ hệ thống
chính trị làm nền tảng cho sự hội nhập và phát triển về kinh tế – xã hội . Để
đạt được điều đó thì mỗi nước phải tìm cho mình một hướng đi đúng sao cho phù
hợp và đẩy nhạnh tốc độ phát triển trên tất cả các lĩnh vực. Bên cạnh đó phải
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc vốn có của mình.
Xuất phát từ cơ sỏ đó, Việt Nam là
một quốc gia đang thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa theo cơ chế thị trường
và làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước,từng
bước đi lên thông qua con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Muốn vậy, chúng ta phải xây dựng một
nhà nước vững mạnh về kinh tế, ổn định về chính trị để phát triển. Cùng với sự
thực hiên chính sách kinh tế mới cũng có những mặt tích cực và tiêu cực đan xen
nhau, trong đó mặt tích cực là cơ bản nhất đang quyết định chiều hướng phát
triển của xã hội và đất nước, là nhân tố tạo nên những thành tựu to lớn của
công cuộc đổi mới. Tuy vậy những biểu hiện về suy thoái về chính trị, tư tưởng,
về đạo đức lối sống trong đội ngũ cán bộ đảng, nhân dân vẫn là nguy cơ tiềm ẩn
liên quan đến sự sống còn của đảng và nhà nước ta.
Việt nam là nước nằm trong khu vực
Đông Nam á, chịu ảnh hưởng sâu sắc của truyền thống á Đông, đặc biệt là Nho
giáo. Nho giáo có một ý nghĩa tích cực tác động mạnh mẽ đến tư tưởng chính trị
nói riêng và cuộc sống nhân dân nói chung đến các nước trong khu vực, nhất là
đối với nước ta.
ở Việt Nam cho đến nay nhìn chung bộ
máy của hệ thống chính trị còn biểu hiện nhiều yếu kém, bất cập trong công tác
lãnh đạo, quản lý và tổ chức thực hiện việc vận động quần chúng . Nhất là bộ
máy nhà nước còn cồng kềnh nhiều đầu mối trung gian , chất lượng hoạt động chưa
cao, hiệu quả còn thấp. Tình trạng tham nhũng quan liêu , mất đoàn kết nội bộ,
xẩy ra những việc có vi phạm nghiêm trọng về kỷ cương, phép nước, vi phạm quyền
làm chủ của nhân dân... Chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền trong các bộ phận của
hệ thống chính trị còn chồng chéo, sự phân định chức năng, thẩm quyền của các
cơ quan chưa thật sự rõ ràng và còn có biểu hiện trong cơ chế vận hành là không
hợp lý ; hơn nữa đội ngũ cán bộ, công chức còn hạn chế cả về năng lực chuyên
môn và tinh thần trách nhiệm ; chế độ tiền lương ,thu nhập bộc lộ rõ những điểm
bất hợp lý , không phát huy ý nghĩa làm vai trò đòn bẩy để kích thích người lao
động làm việc hết khả năng của mình .Tình hình đó đã làm giảm hiệu quả công tác
lãnh đạo của đảng , hiệu lực quản lý của nhà nước chưa cao , tệ quan liêu ,
lãng phí và tham nhũng tăng lên rất nghiêm trọng, trật tự kỷ cương bị vi phạm ,
sự tin cậy gắn bó của nhân dân đối với hệ thống chính trị bị giảm sút.
Vậy thông qua những mặt còn hạn chế
và yếu kém trong tổ chức và quản lý của nhà nước nói chung và biểu hiện của
hoạt động mang tính tư tưởng và chính trị nói riêng , Đảng và Nhà nước ta cần
có những biện pháp , đề ra những phương hướng giải quyết nhằm khắc phục mặt còn
yếu kém và phát huy những điểm mạnh để củng cố hệ thống chính trị làm nền tảng
cho sự phát triển kinh tế , hợp tác về các lĩnh vực mà vẫn giữ vững con đường
xã hội chủ nghĩa mà nước ta đã chọn . Muốn thúc đẩy sự phát triển đó cần nghiên
cứu và hiểu sâu hơn về những nhân tố có tác động mạnh mẽ đến hoạt động lĩnh vực đó.
Qua những năm qua , ta thấy rằng vai
trò của Nho giáo rất lớn , nó góp phần
tích cực trong quá trình xây dựng và quản lý nhà nước. Như Hồ chủ Tịch
đã nói : “ Tuy Khổng Tử là phong và trong học thuyết của Khổng Tử có
nhiều điều không đúng , song những điều hay trong đó chúng ta nên học”.
Vậy nước ta đã có những giải pháp
như thế nào ? cần quan tâm đúng mức như thế nào đối với Nho giáo và vai trò của
nó trong các hoạt động công tác tư tưởng lãnh đạo chính trị của Đảng và Nhà
Nước . Sự cần thiết trong việc khai thác những giá trị của Nho giáo để biến nó
thành một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Đó là tính
cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài .
2. lịch sử nghiên cứu đề tài
Những năm gần đây , một số nước
trong khu vực đẫ tích cực phát huy những ảnh hưởng của Nho giáo và đã có những
bước chuyển biến nhanh chóng về kinh tế – chính trị , văn hoá , xã hội .
Một số nhà khoa học cho rằng : Nho
giáo là một trong những nhân tố quyết định thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
Do đó khi nghiên cứu những ảnh hưởng của Nho giáo tới sự phát triển ở việt nam
hiện nay đòi hỏi phải có sự áp dụng thực tiễn nhằm phục vụ thiết thực cho sự
nghiệp cách mạng của Đảng , Nhà nước phục vụ công cuộc xây dựng đất nước xã hội
chủ nghĩa. ở nước ta qua các giai đoạn lịch sử khác nhau , trong công cuộc đấu
tranh dựng nước và giữ nước cho đến bây giờ , Nho giáo đã và đang có những ảnh
hưởng đến những thành quả cách mạng đó của dân tộc.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn như
vậy đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu và đưa ra nhiều tác phẩm và xuất bản
rộng rãi nhằm đưa ra những mặt tích cực và phân tích cả mặt tiêu cực của Nho
giáo. Nội dung các tác phẩm đều mang ý nghĩa thiết thực cả về phương diện lý
luận và thực tiễn như:
ảnh hưởng của Nho giáo đối với xã
hội việt nam (Đào Duy Anh) ; Nho học ở việt nam (Nhà xuất bản khao học - xã hội
- Hà nội 1997) Nho giáo xưa và nay (Vũ khiêu - nhà xuất bản khao học xã hội) ;
Một số vấn đề về Nho giáo ở Việt Nam ( Phan Đại Doãn , nhà xuất bản chính trị
quốc gia).
3 . Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi hẹp , đề tài đã bắt
đầu tìm hiểu một số nét trong quá trình phát triển của Nho giáo nói chung và
hoàn cảnh du nhập của Nho giáo nói riêng. Đề tài nghiên cứu sự chi phối của Nho
giáo với vấn đề xây dựng và củng cố hệ thống chính tri xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam. Phạm vi nghiên cứu ảnh hưởng tư tưởng của Nho giáo đến Việt Nam là một
phạm vi rộng, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một mảng vấn đề, đó là khai thác
mặt tiêu cực và tích cực của Nho giáo
ảnh hưởng tới việc xây dựng và củng cố hệ thống chính trị ở Việt Nam.
4
. Phương pháp nghiên cứu
Theo phương pháp lịch sử - lôgic
Tiếp cận trực tiếp lý luận đến thực
tiễn để đánh giá dựa trên sự tổng hợp và phân tích. Dựa trên tư tưởng Hồ Chí
Minh và các quan điểm của Đảng.
5.
Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận ra
tiểu luận gồm có hai chương.
B-
nội dung
Chương I: Nho giáo và những tư tưởng của Nho giáo về vấn đề chính trị
1.1.
Quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam
1.1.2.
Hoàn cảnh ra đời và cơ sở xã hội của sự tồn tại và phát triễn của Nho giáo
Khi nghiên cứu lịch sử tư tưởng chính trị
phương đông, chúng ta thấy phần nổi trội nhất mang tính tri phối là lịch sử tư
tưởng chính trị Trung Quốc. Do vậy việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng Trung Quốc
có thể cho ta thấy những yếu tố tiêu biểu và qua đó làm sáng tỏ đặc trưng chung
các tư tưởng chính trị phương đông. Các trường phái tư tưởng Trung Quốc xuất
hiện chủ yếu trong thời xuân thu-chiến Quốc(770- 221 trước công nghuyên). Đây
là giai đoạn với những biến động to lớn, có ý nghĩa vạch đường, đặt nền móng
cho tư tưởng Trung Quốc phát triển.
Thời kỳ này Trung Quốc đang nằm
trong thời kỳchuyển giao hình thái kinh tế – xã hội, chiếm hữu nô lệ sang phong
kiến. Sự thống trị của chế độ Tông pháp nhà chu đang suy tàn , Chu Thiên Tử
trên danh nghĩa thống trị toàn Trung Quốc nhưng đã mất hết thực quyền. Các nước
chư hầu vốn được nhà chu lập nên đến lúc nay quay sang chế độ cắt cử, thôn tính
lẫn nhau, tranh giành quyền bá chủ để thống trị các chư hầu khác. Chiến tranh
nổ ra liên miên , đạo đức, trật tự xã hội bị suy thoái. tình trạng “tôi giết
vua , con giết cha, anh giết em” dần trở nên phổ biến. Nhân dân bị đói khổ vì
chiến tranh, vì áp bức, bóc lột nặng
nề. Một nhu cầu xã hội bức thiết được
đặt ra là phải có học thuyết chính trị phản ánh được xu thế của thời cuộc, thoả
mãn được lợi ích của các giai cấp , các tầng lớp khác nhau. Vì
vậy, những người có học họ đua nhau đưa ra học thuyết của mình nhằm tìm nguyên
nhân của sự loạn lạc và đưa ra các phương án giải quyết các mâu thuẫn trong xã
hội. Họ đi du thuyết khắp nơi với hi vọng được các nhà cầm quyền sử dụng để cứu
vãn tình trạng là đất đương thời. Từ đó tạo nên cao trào tư tưởng “trăm hoa đua
nở, trăm nhà đua tiếng” Nho giáo cũng được ra đời từ đó và có ý nghĩa rất quan
trọng đối với xã hội, cùng với một số trường phái khác như: Mặc gia, pháp
gia....
1.1.2.
Sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam
Nho giáo vốn gốc từ Trung Quốc nhưng
đã xâm nhập vào nước ta suốt hàng nghìn năm Bắc thuộc. Nó đã giữ vị trí quan
trọng trong kiến trúc thượng tầng của xã hội phong kiến Việt Nam và do đó đã
chi phối đời sống tư tưởng và tâm linh của nhân dân ta trong nhiều thế kỷ. ảnh
hưởng của nó không chỉ dừng lại trong phạm vi hoạt động của bộ máy nhà nước,
trong lĩnh vực giáo dục, học thuật và văn nghệ mà còn đi sâu vào phong tục, nếp
sống, niềm tin và khát vọng của con người. Đến năm 1070, Lý Thánh Tông cho xây
dựng văn miếu ở Thăng Long, đắp tượng chu công của Khổng Tử và bảy mươi hai vị
hiền tài khác thờ chính thức đưa việc học Nho giáo vào học đường qua những buổi
học, kỳ thi. Việc Nho giáo chiếm ưu thế ở Triều đình đã ảnh hưởng không nhỏ
trong hàng ngũ trí thức, quý tộc phong kiến lúc bấy giờ . Đến cuối đời Trần,
Nho giáo chiếm ưu thế hơn so với phật giáo . Từ thời nhà Lê trở đi, Nho giáo
trở thành Quốc giáo của chế độ phong kiến ở Việt Nam. Đến thời Quang Trung tư
tưởng của vua lúc này muốn vực dậy chữ Nôm để thoát dần nếp nghĩ Hán Nho và
Tống Nho. nhưng bởi trong thời gian ngắn, không thực hiện được kế hoạch của
Quang Trung. Nhà Nguyễn đánh thắng Tây sơn , lập nền thống trị từ Bắc vào Nam
trên cơ sở tư tưởng của Nho giáo. sau hiệp ước Patơnôt (1884) kí với triều đình
Mãn Thanh, thực dân pháp dần biến nước ta thành thuộc điạ nửa phong kiến , tước
hết cơ sở tồn tại của Nho giáo . Tiếp theo cách mạng tháng 8 năm 1945 là phong
trào cải cách ruộng đất do Đảng ta lãnh đạo để xáo bỏ một bước cơ bản cơ sở của
Nho giáo. Trong những năm thực hiện chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội , Nho giáo vẫn tiếp tục phê phán và những ảnh hưởng của
học thuyết Nho giáo vẫn còn tồn tại
trong xã hội ta hiện nay đang là vấn đề cần nghiên cứu và khai thác .
1.2.
Tư tưởng chính trị trong học thuyết của Nho giáo
Tư tưởng Nho giáo chiếm vị trí đặc
biệt quan trọng trong lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc . Nó đã ảnh hưởng
sâu sắc tới mọi mặt của đời sống xã hội Trung Quốc và các nước láng giềng trong
suốt hai nghìn năm lịch sử , trong đó có Việt Nam. Hai nhân vật tiêu biểu cho
phái Nho gia, đó chính là Khổng Tử và
Mạnh Tử.
Khổng Tử là người sáng lập ra trường phái Nho
gia. Vậy tư tưởng chính trị của Khổng Tử trước hết là vì sự bình ổn xã hội – một xã hội “thái bình thịnh trị “ . Theo ông đạo của
người làm chính trị phải ngay thẳng , phải lấy chính trị để dân dắt dân , nhà
Nho phải tham chính ... Từ nhân thức đó , khổng tử cho rằng xã hội loạn lạc là
do mỗi người không ở đúng vị trí của mình , Lễ bị xem nhẹ. Để thiên hạ có “đạo
“, quay về “Lễ” phải củng cỗ điều nhân , coi trọng Lễ nghĩa , mỗi người phải
hành động trong khuôn khổ của mình , từ đó xã hội sẽ ổn định . Để thực hiên lý
tưởng chính trị của mình , ông đưa ra học thuyết “ nhân -Lễ – chính danh”.
Nhân: Nhân là phạm trù trung tâm
trong học thuyết chính trị của khổng tử . nó là thước đo , là chuẩn mực quyết
định thành hay bại , tốt hay sấu của chính trị . Nội dung của chính trị điều
Nhân được thể hiện : thương yêu người (ái nhân ), trong đó thương yêu người
thân của mình hơn (thân thân) và yêu người nhân đức hơn (thân nhân). Từ thương
người đi đến hai nguyên tắc “.Điều mình không muốn thì đừng (đem ra) đối xử với
người” ( kỷ sơ bất dục , vật thi ư nhân) và “Mình muốn thành đạt thì làm cho
người thành đạt ”. (kỷ dục lập nhi lập nhân , kỷ dục đạt nhi đạt nhân ). Tu
dưỡng bản thân , sửa mình theo nghĩa là nhân. (Khắc kỷ phục Lễ vĩ nhân )tôn
trọng và sử dụng người hiền .
Như vây , nội dung của “nhân” là
nhân đạo , thương yêu người , coi người như mình , giúp đỡ nhau , khi điều nhân
đã bao trùm thì không còn mâu thuẫn , xung đột , Lễ nhà Chu được phục tùng , xã
hội sẽ ổn định. Theo Khổng Tử , đạo “nhân” không phải để cho tất cả mọi
người chỉ có ở người “quân tử”(quý tộc , giai cấp thuộc về giai
cấp thống trị ) còn kẻ “tiểu nhân” (thuộc về người lao động, giai cấp bị trị)
thì không bao giờ có. Để đạt được điều Nhân , cần phải có Lễ
Lễ:
Lễ vốn là những quy định, nghi thức trong cúng tế. Khổng Tử đã lý luận
hoá, biến Lễ thành những quy định trật tự phân chia thứ bậc trong xã hội, được
thể hiện trong phong cách sinh hoạt, hành vi, ngôn ngữ, trang phục, nhà cửa...
Lễ là chuẩn mực đạo đức, là khuôn
mẫu cho mọi người hành động của cá nhân và các tầng lớp trong xã hội. Lúc này
Lễ mang tính pháp lý, có tác dụng khống chế các hành động thái quá. Ai ở địa vị
nào thì dùng Lễ ấy, tuỳ vào tính chất công việc khác nhau mà dùng lế khác nhau.
Lễ là bộ phận của nhân; Lễ là ngọn, Nhân là gốc. Người có đức nhân là người
“không nhìn cái không hợp Lễ ,không làm điều không hợp Lễ “ ( phi Lễ vật thị, phi Lễ vật thính, phi Lễ vật
ngôn, phi Lễ vật động ). Lễ tạo ra cho con người biết phân biệt trên dưới, biết
thân phận, vai trò, địa vị của mình trong xã hội; biết phục tùng, làm theo điều
lành (hợp Lễ) và xa dời điều ác(trái Lễ).
Theo Khổng Tử, Lễ quy định chuẩn mực
cho các mối quan hệ cơ bản: Vua tôi, cha
con, vợ chồng, anh em, bạn bè. Các quan hệ này điều có hai chiều phụ thuộc vào
nhau. “Vua sai khiến bề tôi phải theo Lễ, bề tôi thờ vua theo đạo trung; cha
đối với con phải nhân từ, con thờ cha phải hiếu thảo....” Nhưng ông cũng coi Lễ dưới lật đổ bề trên là
hợp lý, khi bề trên không xứng đáng với danh vị của mình nữa. Việc vua Kiệt nhà
Hạ, vua Trụ nhà Thương bị lật đổ là mệnh trời, vì đó là những ông vua ác, thất
nhân tâm.
Khổng Tử xem Lễ như luật lệ,
“Một ngày xửa mình theo Lễ thì thiên hạ
sẽ theo về” Lễ không phải là cái dùng cho tất cả mọi người mà nó chỉ đem lại áp
dụng đối với những người có Nhân vi
“ người không có nhân thì Lễ làm sao
được”. “kẻ tiểu nhân mà có Lễ thì chưa hề có”.
Chính danh : Đây là phạm trù cơ bản
của học thuyết chính trị của Khổng Tử. Chính danh là xác định và phân biệt quan
hệ danh phận, đẳng cấp giữa các giai cấp , thực chất là khẳng định tính hợp lý
của giai cấp quý tộc trong việc thực thi
quyền lực của mình. Nó vừa là điều kiện , vừa là mục đích chính trị. Chính danh
thể hiện ở các nội dung sau nội dung sau
đây:
Xác định danh phận và đẳng cấp, và
vị trí của từng cái nhân, tầng lớp trong xã hội. Ai ở vị trí nàothì làm tròn
bổn phận ở vị trí ấy “ quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử” (vua phải giữ đúng
đạo vua, tôi phải giữ đúng đạo tôi, cha phải giữ đúng đạo cha, con phải giữ
đúng đạo con”. Không được “việt vị”, làm vượt quá chức năng, bổn phận của mình
(Bất tại kỳ vị ,bất mưu kỳ chính). “Danh” phải phù hợp với “thực”, nội dung
phải phù hợp với hình thức. Trong chính trị , lời nói phải đi đôi với việc làm.
đặt con người vào đúng vị trí và chức năng. Phải xác định “danh” (tên gọi)
trước khi có “thực” (thực tài) vì “danh” là điều kiện để thi hành “thực”, khi
có danh thì thực mới có ý nghĩa “danh không chính thì ngôn không thuận, ngôn
không thuận thì việc không thành ...”. Giữa chính danh và Lễ có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau: muốn “danh” được “chính”(đúng đắn, phù hợp với thực) thì
phải thực hiện Lễ. Chính danh là điều kiện để thực hiện , trau dồi Lễ.
“Chính danh” là biện pháp quy định
và giúp mọi người thực hiện rõ cương vị, quyền hạn và nghĩa vụ của mình
trong quan hệ với đẳng cấp và chức vụ tương ứng. Có xác định
được danh phận thì mới điều hoà được các mối quan hệ. Đây là vấn đề cơ bản của
cách cư xử chính trị.
Học thuyết chính trị của Khổng Tử
được xây dựng dựa trên ba phạm trù cơ bản: nhân – lễ -chính danh. Nhân là cốt
lõi của vấn đề, vừa là điểm xuất phát nhưng cũng là mục đích cuối cùng của hệ
thống. Do vây, có thể gọi học thuyết chính trị của Khổng Tử là “đức trị” vì lấy
đạo đức làm gốc hay “nhân trị” (chính trị dùng điều nhân). Điều nhân được biểu
hiện thông qua lễ, chính danh là con đường để đạt được chính nhân. Ba yếu tố đó
có quan hệ biện chứng với nhau, tạo nên tính chặt chẽ của học thuyết. Về bản
chất chính trị của Khổng Tử là duy tâm
và phản động , vì nó không tính đến các yếu tố vật chất của xã hội mà chỉ khai
thác yếu tố tinh thần (đạo đức). Mục đích của học thuyết là bảo vệ chế độ đẳng cấp,
củng cố địa vị của giai cấp quý tộc đã lỗi thời , đưa xã hội trở về thời Tây Chu.
Mạnh
Tử
Ông đã kế thừa và phát triển sáng tạo những tư tưởng
của Khổng Tử , xây dựng học thuyết “Nhân chính” của mình .
Thuyết tính thiện : theo mạnh tử ,
bản tính tự nhiên của con người là thiện (nhân chi sơ tính bản thiện). Con
người có lòng chắc ẩn thì tự nhiên có lòng tu ố (biết sấu hổ) , từ nhượng
(nhượng nhịn) , thi phi (biết phải trái . Lòng trắc ẩn là nhân , lòng tu ở là
nghĩa , lòng tử nhượng là Lễ ,lòng thị phi là trí. Nhân , nghĩa , lễ , trí là bốn “đầu mối” vốn có ở tâm ta. con người có thể
trở nên ác nếu không biết “tồn tâm” , “dưỡng tính” để cho vật dục chi phối ,
chạy theo lợi ích cá nhân .
Quan niện về vua – tôi , dân : Mạnh
Tử cho rằng : thiên tử là mệnh trời trao cho thánh nhân và mệnh trời nhất trí
với ý dân. Trời ngấm ngầm trao quyền cho người có đức , hợp lòng dân. Quan hệ
vua - tôi là quan hệ hai chiều: “ vua coi bầy tôi như chân tay thì bầy tôi coi
vua như ruột thịt , vua coi bầy tôi như chó ngựa thì bầy tôi coi vua như người
dưng , vua coi bầy tội như cỏ rác thì bầy tôi coi vua như cừu địch”. Tiến thêm
một bước ông cho rằng: Nếu vua không ra vua thì phải loại bỏ, vua mà tàn ác thì
phải gọi là thằng:“Ta phải hiểu là giết
thằng trụ chứ không nên hiểu là giết vua vậy” .
Mạnh tử đề xuất tư tưởng “nhường
ngôi” (thiên nhượng). Thiên tử có thể nhường ngôi cho vua chư hầu căn cứ vào
đức hạnh và khả năng thực hành nhân chính của ông ta .
Mạnh tử là người đầu tiên đưa ra
luận điển tôn trọng dân “Dân là quý nhất , quốc gia là đứng thứ hai , vua là
không đáng trọng” (dân vi quý , xã tắc thứ chi , quân vi khinh). Nhưng dân ở
đây chỉ là thần dân , kẻ phụ thuộc , bị thống trị . Coi trọng dân chỉ là thủ
đoạn chính trị để thống trị tốt hơn mà thôi .
Quan niệm về quân tử - tiểu nhân :
“Quân tử” là hạng người lao tâm , cai trị người và được người cung phụng. “Tiểu
nhân” là hạng người lao lực , bị cai trị và phải cung phụng người. Mạnh tử đề
xuất chủ trương “thượng hiền”, dùng người hiền tài để thực hành “nhân chính”.
Trị nước là nghề cao quý và quan trọng nhất , nên người cai trị phải được tuyển
chọn công phu , chu đáo. Nhưng bất đắc dĩ mới để cho ngoại lệ “kẻ hèn vượt
người tôn quý”.
Chủ trương vương đạo : Mạnh Tử kịch
liệt phản đối “bá đạo” (chiến tranh bạo lực) , nguồn gốc của mọi rối ren , loạn
lạc. Chính trị “vương đạo” là nhân chính , lấy dân làm gốc .
“Vương đạo” chỉ nhằm vào nhân nghĩa để mỗi
người “tự nuôi lấy bản tính mà chờ số mệnh” thì thiên hạ sẽ bình yên vô sự.
Muốn cho tâm chí dân chúng ổn định
không làm loạn (hằng tâm) thì phải tạo điều kiện cho họ có mức sống vật chất
tối thiểu (hằng sản). Thực chất của “vương đạo” là người cai tri phải giáo dục
dân tuyệt đối phục tùng bề trên , thực hiên “tam cương ,ngũ thường”, trói buộc
ý thức nông dân và luân lý Nho giáo để dễ bề cai trị họ.
Học thuyết “nhân chính” của Mạnh tử
có nhiều nhân tố tiến bộ hơn so với Khổng Tử. Tuy vẫn còn đứng trên lập trường
của giai cấp thống trị , nhưng ông đã nhìn thấy được sức mạnh của nhân dân ,
chủ trương thi hành nhân chính , vương đạo. Đó là những yếu tố dân chủ , tiến
bộ . Điểm hạn chế của ông là còn tin vào mệnh trời và tính thần bí trong lý
giải vấn đề quyền lực.
Chương
II . Khai thác những giá trị của Nho
giáo trong việc xây dựng và củng cố hệ thống chính trị
2.1.
Khai thác những yếu tố tích cực của tư tưởng Nho giáo trong việc xây dựng và
củng cố hệ thống chính trị
Nho giáo vào việt nam trước hết giữ vai trò
của một học thuyết chính trị đạo đức giúp nhà vua trị nước yên dân và xây dựng
một trật tự xã hội phù hợp với cương thường Lễ nghĩa. Và trong những năm gần
đây , vấn đề Nho giáo và sự ảnh hưởng của nó đến mọi mặt của đời sống xã hội đã
được đề cập nhiều trong sách báo , tạp chí. Đây là vấn đề phức tạp , không chỉ
đơn thuần trên lý thuyết mà đã đi vào thực tiễn như một bộ phân của đời sống xã
hội mà nhiều học giả đã đề cập tới. Nhiều ý kiến cho rằng Nho giáo là sản phẩn
của tư tưởng phong kiến , là con đẻ của nền sản xuất tiểu nông , nó đồng nghĩa
với cái lạc hậu , cái sấu , cái bảo thủ ... Nhưng ngày nay đã có nhiều sự đổi
mới trong vấn đề nhân thức và đánh giá lại vai trò của Nho giáo , có ý kiến cho
rằng: Nho giáo không chỉ đơn thuần là hệ tư tưởng của giai cấp phong kiến mà
còn là những giá trị tưtưởng văn hoá của nhân loài. Quá trình du nhập của Nho
giáo vào xã hội , con người việt nam đã góp phần tạo nên những giá trị , những
phong cách đặc sắc trong xã hội và con người việt nam.
Trên con đường tiến tới một tương
lai tốt đẹp : Dân giàu nước mạnh , xã hội công bằng và văn minh , chúng lại
thường xuyên đụng đến những vấn đề Nho giáo. Nho giáo tiếp tục ảnh hưởng cả
chính diện và phản diện đến tư tưởng chính trị việt nam . Nho giáo có những mặt
tích cực tạo thuân lợi cho sự phát triển tiến bộ cua xã hội , nhưng cũng có
những tiêu cực phản lại sự tiến bộ của thời đại. Vì vậy khi khai thác những ảnh
hưởng đó của Nho giáo cần phải đánh giá một cách có hệ thống và chọn lựa áp
dụng vào thực tiễn sao cho phù hợp với sự phát triển của xã hội , tiến bộ loại
người .
Trước những ảnh hưởng của Nho giáo
đối với con người việt nam như vậy , vấn đề đặt ra là làm thế nào khai thác
được những yếu tố tích cực và gạt bỏ những yếu tố tiêu cực trong di sản Nho
giáo. điều này phụ thuộc trước hết vào ý thức tự chủ và tinh thần sáng tạo của
Đảng và nhân dân ta .
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng
của mình , Bác Hồ đã nhiều lần nhắc đến nhân nghĩa , chữ tín , trung , chữ cần
, kiêm , liêm , chính , trí công vô tư ... Điều này chứng tỏ trong sự nghiệp
cách mạng của mình , Bác luôn khẳng định vị trí của Nho giáo , vai tro của Nho
giáo tác động vào toàn dân tộc. Người đã cương quyết gặt bỏ đi cái cốt lõi lạc
hậu của Nho giáo , giữ gìn và phát huy những nhân tố hợp lý của Nho giáo nhằm
phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. Vây , đối với viêc khai thác mặt ảnh hưởng
tích cực của Nho giáo đến đời sống , xã hội là một việc làm có ý nghĩa hết sức
quan trọng. Đó là ý nghĩa đối với việc rèn luyện , tu dưỡng đạo đức con người ,
mà từ đó làm cơ sở cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc mà đặc biệt là việc
xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị .
Trong hệ thống chính trị , trong hệ
thống cơ quan quản lý nhà nước , nhân tố con người luôn là nhân tố quyết định ,
đặc biệt đối với con người của đảng , con người hoạt động cách mạng thì vấn đề
“đạo trung , đạo hiếu” trong Nho giáo phải được quan tâm hàng đầu. Theo đó
trung hiếu là điều cơ bản , coi như chuẩn mực đạo đức cao nhất trong hành vi
của con người. Trong Nho giáo , trung hiếu co nghĩa là trung thành tuyệt đối
với nhà vua , hiếu với ông bà cha mẹ , người lớn tuổi. Còn trong xã hội ngày
nay , trung và hiếu được hiểu là trung với tổ quốc , hiếu với nhân dân , đó còn
là kỷ cương , phép nước thời nay .
Trong mọi hoạt động xã hội , con
người bao giờ cũng giữ một vị trí quan trọng nhất. Riêng trong việc xây dựng và
hoạt động củng cố hệ thống chính trị thì nhân tố con người lại càng phải được
quan tâm hơn nữa. Đó phải là những con người có ý thức tổ chức cao , tinh thần
làm việc sáng tạo , trung thực , không tham ô , tham nhũng , không ngừng trau
dồi kiến thức , luôn biết học hỏi để nâng cao năng lực , luôn gương mẫu trong
tập thể và nhân dân , lời nói phải đi đôi với việc làm... Sống phải mang tĩnh
cộng đồng , coi trọng giá trị đạo đức truyền thống vốn có của mình . Thực hiên
đúng đường lối chính sách của đảng và pháp luật của nhà nước đề ra .
Trong xã hội xưa , ảnh hưởmg của Nho
giáo thể hiện : “dân là quý nhất , quốc gia đứng thứ hai , vua là không đáng
trọng” và trong xã hội hiện nay , ảnh hưởng đó thể hiện là : “Nhà nước ta là
nha nước của dân , do dân và vì dân” . Đó là sự thể hiên quan điểm lấy dân làm
gốc trong việc xây dựng và phát triển nền dân chủ của xã hội chủ nghĩa ở việt
nam .
2.2.
Khắc phục những hạn chế của tư tưởng Nho giáo trong chính trị và ảnh hưởng của
nó đến việt nam
Không phải đảng ta là người đầu tiên
mà chính Nho giáo đã coi “nhân dân là gốc”. Nho giáo đã nhìn thấy sức mạnh của
nhân dân : “Nhân dân có thể đẩy thuyền nhưng cũng có thể lật thuyền” . Tuy
nhiên các điều quan trọng nhất đối với nhân dân thì Nho giáo lại không thừa
nhận. Đó là quyền dân chủ của quần chúng , quyền bình đẳng của xã hội , quyền
tự do của mỗi người. Đặc biệt Nho giáo không thấy được nhân dân chính là lực
lượng chính làm nên lịch sử. Vì Nho giáo luôn coi tầng lớp nhân dân là những
ngưoi nghèo hèn cần được bề trên trên chăn dắt và sai khiến ...
Khắc phục điển hạn chế của Nho giáo
đó, Hồ Chí Minh đòi hỏi người cán bộ phải là “đầy tơ của nhân nhân”, phải học
hỏi nhân dân và yêu quý nhân dân. Đó chính là quyền làm chủ của nhân dân đúng
như bản chất của nhà nước ta là nhà nước của dân , do dân, vì dân ; Đúng như
đường lối phat triển chế độ nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là: Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ.
Vây Nho giáo đã ảnh hưởng không ít
đế tư tưởng chính trị của các nhà lánh đạo đảng, nhà nước Việt Nam. Trong cuộc
sống của nhân dân, Nho giáo cùng thể hiện ró vị trí đó của mình đối với nhân
dân. Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực cho đạo đức lối sống văn hoá, nó cúng
bộc lộ những mặt hạn chế như là tư tưởng bảo thủ, tư tưởng phong kiến đàn
áp.... gây sức ép lớn trong quần chúng, nhiều lúc dấn đến cực đoan, gián tiếp
gây ra những hậu quả khó tránh được như niềm tin mệnh trời, vào thần thánh, tín
ngướng tôn giáo mâu thuấn, mê tín dị đoan... không tin vào sức mạnh con người,
của khoa học kỹ thuật công nghệ... làm cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nước gặp nhứng chở ngại khó khăn. Cụ thể như từng thời kỳ kháng chiến chống
thực dân pháp, tư tưởng phong kiến ảnh hưởng tiêu cựccủa Nho giáo đã gây chia
rẽ cục bộ, tình hình mất đoàn kết, áp bức và nô dịch... đã gây chở ngại không
nhỏ tới sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta.
Khắc phục những mặt hạn chế này của
tư tưởng Nho giáo, Đảng và Nhà nước ta có đường lối, chính sách về vấn đề này.
Quan tâm tới việc ảnh hưởng của Nho giáo trong nhân dân bằng cách tăng cường
chống những biểu hiện suy thoái đó trong đội ngũ cán bộ Đảng, Nhà nước và nhân
dân ; phát huy vai trò tích cực của Nho giáo và chỉ ra mặt tiêu cực, không tốt
để nhân dân cùng biết... có như thế Đảng và nhà nước mới đạt được mục tiêu dân
giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh, tiến kịp thời đại.
Trong quá trìng đổi mới của đất
nước, trong đai hội Đảng lần thứ IV, Đảng đã đề cập đến vấn xây dựng con người
mới xã hội chủ nghĩa. phát triển trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
xã hội nhằm đưa đất nước đi lên, tiến the con đường chu nghĩa xã hội mà Đảng và
nhà nước đã chọn. Đó chính là công việc củng cố hệ thống chính trị vững mạnh,
kiện toàn bộ máy nhà nước làm nền tảng cho mọi bước phát triển.
C.
kết luận
Sự ảnh hưởng của Nho giáo rất lâu
dài nó đã ăn sâu trong đời sống của nhân dân Việt Nam, đặc biệt trong quá trình
xây dựng con người mới, con người xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện hệ thống chính
trị hiện nay. Những ảnh hưởng đó rất phức tạp, đòi hỏi sự nghiên cứu công phu,
đi từ cơ sở kinh tế xã hội, từ phong tục tập quán cổ truyền, từ những tàn dư xã
hội cũ đến những phân tích về biến chuỷên tâm lý của con người dưới sự tác động
của Nho giáo. từ đó có được những đánh giá khách quan, những kinh nghiệm để
hoàn thiện việc áp dụng sâu rộng mặt tích cực và khắc phục những tiêu cực nhằm
phục vụ cho quá trình hoàn thiện con người đến hoàn thiện hệ thống chính trị,
bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Qua sự nghiên cứu về đề tài, ta thấy
được ảnh hưởng của Nho giáo với cuộc sống của người Việt Nam là sâu sắc. Có thể
nói, Nho giáo là một cái gì đó thiêng liêng, không cần có sự vận động hay tuyên
truyền mà tự nó xâm nhập vào cuộc sống của dân. Nó trở thành nếp sống của người
dân, và điều đó rất quan trọng đối với công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay.
Nước ta đang từng bước công nghiệp
hoá, hiện đại hoá xây dựng một nhà nước vững mạnh về chính trị, kinh tế, xã
hội. Để đạt được mục tiêu của Nhà nước, nhất là hoàn thiện hệ thống chính trị,
Nho giáo giữ một vị trí quan trọng. Bởi vì: Trong xây dựng con người xã hội chủ
nghĩa, con người của Đảng, Nho giáo có tác động to lớn. Nó không chỉ là một thứ
nếp sống tinh thần bình thường mà nó còn là một biện pháp mà con người dùng để
giáo dục con người. Khắc phục những hạn chế và phát huy những tích cực của Nho
giáo,đó chính là một công việc phục vụ cho sự phát triển xã hội.
Như vậy, hàng nghìn năm qua và cho
đến hiện nay, Nho giáo vấn có một vị trí , vai trò quan trọng trong cuộc sống
của dân tộc việt nam. vì vậy trong quá trình củng cố hệ thống chính trị ổn định
, hoàn thiện bộ máy nhà nước và xây dựng
con người xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần phát huy hơn nữa vai trò của Nho giáo
, có sự khẳng định về Nho giáo trong tường bước của nền giáo dục về tư tưởng ,
đạo đức của Đảng và Nhà nước ta .
Có thể bạn muốn biết?
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét