Nho giáo trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay
Chủ Nhật, 13 tháng 11, 2016
Nho giáo trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay
MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài:
Nho giáo vốn gốc từ Trung Quốc do
Khổng Tử khai sáng nhưng đã xâm nhập vào nước ta qua hàng ngàn năm. Nó đã giữ
một vị trí quan trọng trong kiến trúc thượng tầng của xã hội phong kiến Việt
Nam và do đó đã chi phối đời sống tư tưởng và tâm linh của nhân dân ta trong
nhiều thế kỷ. Ảnh hưởng của Nho giáo không chỉ dừng lại ở trong phạm vi hoạt
động của bộ máy Nhà nước, trong lĩnh vực giáo dục, học thuật và văn nghệ mà còn
đi sâu vào phong tục, nếp sống, niềm tin và khát vọng của con người. Trong quá
trình thâm nhập vào Việt Nam, Nho giáo đã kết hợp với những tín ngưỡng tôn giáo
cổ truyền vốn có từ lâu đời trên đất nước ta, chịu ảnh hưởng đồng thời cải tạo
và củng cố một số tín ngưỡng cổ truyền ấy. Với sự thúc đẩy và cổ vũ của các
triều đình phong kiến Việt Nam, Nho giáo đã phát huy khía cạnh thần học và gắn
với những nghi thức tế lễ có tính chất tôn giáo. Hơn nữa Nho giáo còn hoà quyện
với các tôn giáo lớn như Phật giáo và Đạo giáo để tạo nên cái khung cảnh “Tam
giáo đồng nguyên”. Trong cái khung cảnh ấy, Nho giáo vừa chi phối sự phát triển
của Phật giáo, Đạo giáo vừa tiếp thu những yếu tố của Phật giáo và Đạo giáo. Có
thể nói sự có mặt của Nho giáo là không thể thiếu trong bức tranh chung về sinh
hoạt tôn giáo của đất nước Việt Nam trên nhiều chặng đường lịch sử.
Tư tưởng Nho giáo chiếm vị trí đặc
biệt quan trọng trong lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc. Nó đã ảnh hưởng
sâu sắc mọi mặt của đời sống xã hội Trung Quốc và các nước láng giềng trong
suốt hơn hai nghìn năm lịch sử. Và tư tưởng ấy cũng đã ảnh hưởng rất sâu sắc
trong tư tưởng chính trị Việt Nam. Trong cuộc đấu tranh chống Bắc thuộc, xu
hướng chống Hán hoá là ý chí của những người Việt Nam yêu nước chống bọn xâm
lược trên mọi lĩnh vực. Nhưng họ không chống đối cực đoan mà biết tiếp thu có
chọn lọc những giá trị của văn hoá Hán để làm giàu vốn tri thức và làm phong
phú nền văn hoá dân tộc. Ngay khi chế độ Bắc thuộc sụp đổ, những người Việt
trong chế độ triều đình phong kiến Việt Nam đã từng ý thức được vai trò của Nho
giáo đối với đời sống chính trị và thấy được sự tiếp thu Nho giáo là cần thiết
để chuyển hoá nó từ chỗ vốn là vũ khí tinh thần của kẻ đi xâm lược đã bại trận
trở thành một công cụ có ích cho việc xây dựng một Nhà nước phong kiến và một
trật tự xã hội phong kiến Việt Nam vững mạnh.
Dưới góc độ của Hệ tư tưởng học,
sinh viên nhận thấy rằng: Để hiểu thêm về tư tưởng chính trị của Nho giáo và vị
trí, vai trò của nó trong xã hội ta là một việc làm cần thiết. Chính vì vậy,
sinh viên đã chọn đề tài “Nho giáo trong công cuộc đổi mới đất nước
hiện nay”.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài:
Ở nước ta
trong nhiều năm qua đã có các công trình nghiên cứu về Nho giáo đối với xã hội
Việt Nam như: Cuốn “Nho giáo tại Việt Nam" của Viện Triết học và Trung tâm
Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia do nhà xuất bản Khoa học – xã hội xuất bản
năm 1994; Cuốn “Nho giáo xưa và nay” của tác giả Quang Đạm do nhà xuất bản
Thông tin xuất bản năm 1999; cuốn “Nho giáo ảnh hưởng của nó - vấn đề của ngày
xưa, ngày nay nước ta” của giáo sư Trần Đình Hượu; cuốn “Vài ý kiến ảnh hưởng
của Nho giáo đối với xã hội Việt Nam” của Đào Duy Anh; cuốn “Người dân Vịêt Nam
dưới tác động của Khổng Tử” của Vũ Khiêu; cuốn “Nho giáo” của Trần Trọng
Kim,…Trong số các tác giả trên một số đánh giá cao vai trò của Nho Giáo đối với
xã hội và con người Việt Nam hiện nay, thậm chí có người coi Nho Giáo tạo cơ sở
quan trọng cho việc xâm nhập dễ dàng chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam, hoặc
coi các truyền thống Việt Nam bắt nguồn từ Nho giáo. Ngược lại với những quan
điểm trên là phê phán, phủ nhận vai trò của Nho giáo, phê phán các tư tưởng của
Nho giáo, phủ nhận Nho giáo đã diễn ra ở Trung Quốc những năm 1950-1960, ở Việt
Nam cũng không ít người nhìn nhận Nho giáo dưới lăng kính tiêu cực cho rằng Nho
giáo là trở lực của sự phát triển của xã hội.
3.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
3.1 Mục đích:
Đề tài có mục
đích là làm rõ tư tưởng về chính trị của Nho giáo và sự tiếp biến tư tưởng
chính trị của Nho giáo ở Việt Nam, từ đó chứng minh cho sự ảnh hưởng của nó đối
với nước ta trong quá khứ và hiện tại, trên cơ sở đó có cách nhìn nhận đúng đắn
về nó và đồng thời đưa ra một hệ thống các quan điểm, chính sách đúng khoa học
có ý nghĩa phương pháp luận đối với việc xây dựng nền văn hoá, chính trị, con
người mới nói riêng và sự nghiệp đổi mới đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội nói
chung.
3.2 Nhiệm vụ:
Để thực hiện
được những mục đích đã đưa ra ở trên thì đề tài có nhiệm vụ:
- Làm rõ quá
trình hình thành, phát sinh, phát triển tư tưởng chính trị của Nho giáo.
- Nghiên cứu
sự tiếp biến, sự ảnh hưởng của tư tưởng chính trị Nho giáo ở Việt Nam.
- Ý nghĩa,
phương pháp luận rút ra từ việc nghiên cứu trên với việc kế thừa và phát huy tư
tưởng về chính trị trong truyền thống và trong giai đoạn hiện nay.
4.
Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài chủ
yếu sử dụng phương pháp logic lịch sử kết hợp sử dụng các phương pháp tổng hợp,
so sánh, khái quát và hệ thống hoá.
5.
Kết cấu của đề tài:
Ngoài
phần mở bài, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì nội dung của đề tài
gồm có 3 chương, 6 mục.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN
VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA NHO GIÁO
1.1.
Sự ra đời và phát triển của Nho giáo.
1.1.1. Sự ra đời của Nho giáo[1].
Trong suốt chiều dài lịch sử phát
triển của mình, Trung Quốc luôn luôn là quốc gia lớn ở Đông Á, trên lãnh thổ
Trung Quốc có hai con sông lớn chảy qua, đó là Hoàng Hà ở phía Bắc và sông
Trường Giang ở phía Nam. Lưu vực hai con sông này sớm trở thành cái nôi của nền
văn minh Trung Hoa, về mặt chủng tộc, cư
dân ở lưu vực sông Hoàng Hà thuộc giống người Mông Cổ, đến thời Xuân Thu gọi là
Hoa Hạ. Đó là tiền thân của Hán tộc sau này.
Trung Quốc cổ đại kéo dài từ thế kỉ
XXI (TCN) đến cuối thế kỉ III (TCN), với
sự kiện Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Quốc bằng uy quyền bạo lực, mở ra thời
kỳ phong kiến. Lịch sử xã hội chiếm hữu nô lệ Trung Quốc là lịch sử đấu tranh
tàn khốc giữa chủ nô và nô lệ; giữa tầng lớp thượng lưu của xã hội chiếm hữu nô
lệ với những nông dân phá sản bị nô dịch và trở thành phụ thuộc; giữa tầng lớp
quý tộc truyền thống bị bần cùng hoá với những thương nhân giàu có tiếm quyền.
Lịch sử Trung Quốc cổ đại được chia làm ba
thời tương ứng với ba vương Triều: Hạ, Thương, Chu.
Hạ: (khoảng thế kỷ XXI -XVI - TCN): mặc dù Vũ
chưa xưng vương, nhưng là người đặt cơ sở cho triều Hạ. Thời kỳ này Trung Quốc
mới chỉ biết đồng đỏ, chưa có chữ viết. Sau bốn thế kỷ với đời vua kiệt bạo
chúa nổi tiếng đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, Triều Hạ bị diệt vong và
không để lại những chứng tích cụ thể.
Thương: (thế
kỉ XVI - XII TCN) hay còn gọi là nhà Ân, Thăng là người đem quân tiêu diệt vua
kiệt, thành lập nhà Thương. Thời kì này người Trung Quốc biết sử dụng đồng
thau, chữ viết ra đời và họ đã biết làm lịch nông nghiệp, biết quan sát sự vận
hành của mặt trăng, tính chu kì của nước sông dâng lên. Thời thương, giới quý
tộc giữ vai trò thống trị, mà các tư tưởng gia đã khẳng định sự thống trị của
quý tộc là do trời định, nhà vua là "thiên tử", quản lí quốc gia theo
mệnh trời.
- Chu: (thế kỉ XI - III TCN).
Người thành lập nhà Chu là Văn Vương,
người có công tiêu diệt vua Trụ - bạo chúa nổi tiếng thời Thương. Trong hơn tám
thế kỉ tồn tại, Triều Chu được chia thành hai thời kì Tây Chu và Đông Chu, thời
Chu nhìn chung xã hội Trung Quốc tương đối ổn định từ năm 771 TCN, nhà Chu rời
đô về Lạc Ấp ở phía Đông nên gọi là Đông Chu. Thời Đông Chu tương ứng với hai
thời kì: Xuân Thu (772-481 TCN) và Chiến Quốc (403 - 221 TCN).
Thời Đông Chu
là thời kì chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến. Đồ sắt
được sử dụng rộng dãi, tạo nên cuộc cách mạng về công cụ sản xuất. Hệ thống
thuỷ lợi rất phát triển, tạo điều kiện cho nông dân trồng lúa hai vụ, công cuộc
khai hoang, khẩn hoá, mở rộng đất canh tác được nhà nước khuyến khích. Các nghề
khai khoáng, chế tác kim loại, làm muối, làm thuỷ tinh... phát triển, theo đó
xuất hiện các trung tâm buôn bán, đô thị mở rộng hệ thống giao thông.
Trong xã hội,
bên cạnh các giai cấp, tầng lớp xã hội cũ (quý tộc, nông dân, thợ thủ công, nô
lệ), đã xuất hiện những giai cấp tầng lớp mới là địa chủ, thương nhân. Trước
đây khi nhà Chu thịnh vượng thì đất đai thuộc nhà vua. Vào thời kì Chiến Quốc,
đất đai phần lớn thuộc địa chủ, sự phân hoá sang hèn dựa trên cơ sở số lượng
tài sản, đạo đức, trật tự xã hội suy thoái, đảo lộn, tình trạng tôi giết vua,
con giết cha, vợ giết chồng trở nên phổ biến, thời đại "lễ hư, nhạc hỏng
", nhân dân bị đói khổ vì chiến tranh, bị áp bức,bóc lột nặng nề, lúc này
trong xã hội xuất hiện tầng lớp trí thức mới " kẻ sĩ văn học", họ
không trị nước mà bàn việc nước từ đó hình thành nhiều trường phái, học thuyết
chính trị khác nhau, hoạt động sôi nổi, rầm rộ gọi là phong trào " Bách
gia chư tử" (Bách gia tranh minh, chư tử hưng khởi). Nhìn chung các trường
phái chính trị - xã hội hay các học thuyết xã hội cũng hướng vào giải quyết
những vấn đề thực tiễn đạo đức - chính trị của xã hội. Trong các học thuyết đó
có nho giáo do Khổng Tử sáng lập.
1.1.2. Sự phát triển của Nho giáo
Nho giáo
chính là hệ thống học thuyết và đạo lý bảo vệ đến cùng và cố sức phục hồi hình
thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ nhà Chu, cho nên nó không phù hợp với thế
lực nổi lên thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Vì vậy, khi Doanh Chính tức Tần Thuỷ
Hoàng lên ngôi, bằng bạo lực và pháp trị với chính sách hà khắc như:" đốt
sách chôn nho" đã ra sức diệt Nho giáo - một học thuyết triết học chính
trị. Có thể nói vào thời Tần, đạo của Khổng Mạnh bị chôn vùi theo các nhà Nho
và tiêu huỷ theo các sách Nho qua ngọn lửa Tần. Không thể như nhà Tần trị nước,
bằng binh hùng , tướng mạnh, gươm sắc, giáo nhọn, Lưu Bang rất cần có một học
thuyết chính trị để điều hành xã hội đương thời cùng với Nho giáo cũng có nhiều
học thuyết như "vô vi" của Lão Đau, "Vị Ngã " của Chu
Phương, "Kiêm Ái" của Mạc Định tồn tại nhưng Lưu Bang đã chấp nhận
Nho giáo. Nho giáo đã dần dần được phục hồi và trở thành vũ khí tinh thần của
nhà Hán và chiếm địa vị cao nhất trong Tam Giáo.
Đến các Triều
đại nhà Đường thì Nho giáo lại không chiếm vị trí đáng kể (phật giáo được đề
cao) nhưng đến nhà Tống thì Nho giáo lại được đề cao. Nổi bật là hai anh em
Trình Hạo - Trình Di mở trường học Nho giáo đầu tiên. Thành ngữ "Cửa Khổng
Sân Trình" xuất hiện từ đời Tống thể hiện rõ điều đó.
Ngót một thế
kỉ, Triều đại Mông Nguyên thống trị toàn bộ nước Trung Hoa, Nho giáo vẫn được
duy trì bằng công việc giảng dạy đạo, thi cử.Từ đầu thế kỉ XVI, Vương Dương
Minh (đời nhà Minh) đã phát triển Nho giáo theo hướng duy tâm chủ quan cực
đoan.
Đến đời nhà
Thanh, thời thế có nhiều thay đổi, Trung Hoa tiếp xúc với văn hoá Tây Âu. Đại
biểu của các nhà cải cách dân chủ là Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu, cũng muốn
nước Trung Hoa phát triển công nghiệp, khoa học - kĩ thuật ... song cuối cùng
họ chỉ đi đến chỗ tìm đường cải lương và duy tân dưới ngọn cờ của hoàng đế
Thanh Triều.
Như vậy,
trong suốt hơn hai nghìn năm trường tồn, qua mỗi triều đại, chính thể, tuy Nho
giáo cũng có những thay đổi có những vị trí và vai trò nhất định trong thượng
tầng kiến trúc, song không đến mức làm thay đổi bản chất của nó. Trong mỗi giai
đoạn, về tổ chức, thể chế và pháp luật thì dĩ nhiên Triều đại sau có những cái
mới so với Triều đại trước, song những tư tuởng cơ bản của Nho giáo thì triều
đại nào cũng phải giữ lấy.Vì vậy, Nho giáo, hệ tư tưởng chính trị chính thống
của giai cấp phong kiến thống trị đã ăn sâu, bám chặt vào đời sống xã hội, tinh
thần Trung Quốc hơn hai nghìn năm qua, cho đến khi cách mạng Tân Hợi nổ ra
10.10.1911.
1.2.
Những tư tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo
Tư tưởng
chính trị của Nho giáo chiếm vị trí đặc biệt trong lịch sử tư tưởng của Trung
Quốc. Hệ tư tưởng chính trị Nho giáo được thể hiện một cách cơ bản có hệ thống
trong tư tưởng của người khởi xướng (Khổng Tử), những nhà Nho tiếp theo, xuất
phát từ đó mà cụ thể hoá và phát triển thêm theo một số hướng khác nhau, tiêu
biểu là Mạnh Tử và Tuân Tử.
1.2.1. Tư tưởng chính trị của Khổng
Tử ( 551 -478 TCN)
Khổng Tử là người sáng lập trường
phái Nho gia. Ông tên là Khâu, tự là Trọng Ni, sinh ra trong một gia đình quý
tộc nhỏ ở nước Lỗ. Thời trẻ, ông đã mở trường dạy học, sau đó làm chức quan
nhỏ, quản lý kho và trông coi trâu, dê, sau đó là Trung đô tể, quan Tư khấu. Vì
không được trọng dụng, ông dẫn các học trò đi chu du các nước hơn 10 năm. Cuối
đời, ông trở về nước Lỗ tiếp tục dạy học và chỉnh lý, san định các thư tịch cổ
như ngũ kinh: Thi, Thư, Lễ, Ngạc, Dịch và viết kinh Xuân Thu. Luận Ngữ là bộ
sách do các học trò của Khổng Tử ghi lại. Tư tưởng chính trị của Khổng Tử trước
hết là vì sự bình ổn xã hội - một xã hội “thái bình thịnh trị”.
Những nội
dung cơ bản của chính trị [2].
Về chính trị và quyền lực chính trị:
Ông dùng khái niệm về cai trị là "chính" như" vi chính",
"vấn chính". Và ông quan niệm lĩnh vực cai trị, người cai trị lấy
việc ngay thẳng, giữ lòng tin làm chuẩn mực: "chính giả, chính dã, tử xuất
dĩ chính, thục cảm bất chính" nghĩa là việc cai trị phải ngay thẳng, nay
ngài ngay thẳng chính trực, ai còn dám lừa dối (Nhan Uyên - Luận Ngữ). Vậy
chính trị là chính đạo, thẳng thắn, cai trị phải ngay thẳng.
Phương
pháp cai trị
Theo ông
phương pháp cai trị lý tưởng phải là cai trị bằng đạo đức: "cai trị bằng
đức, giống như sao Bắc Đẩu cứ ở yên một chỗ mà các sao khác phải hướng theo về" (Vi Chính - Luận Ngữ).
Quyền lực nhà
nước phải tập trung vào một người là vua, bên dưới có chư hầu, đại phu cùng cai
quản dân.
Lý tưởng
chính trị của ông là xây dựng quốc gia Trung Quốc thống nhất theo mẫu hình nhà
Tây Chu, nhà nước đó, trên có thiên tử song vua phải sáng, tôi phải hiền,vua
quan tâm chăm sóc dân như cha đối với
con.
Quan niệm
chung về chính trị cũng như lý tưởng về chính trị được ông triển khai theo
phương pháp luận "Nhất Dĩ Nhi Quán Chi" (Lấy cái bao trùm những cái
khác) và lấy cái nội dung như dùng "Lễ", "Chính Danh", và
đạo"nhân" là các phương pháp cai trị.
Quan niệm về "lễ trị"
"Lễ"
là chuẩn mực ứng xử mang tính hình thức trong xã hội nói chung, chính trị nói
riêng. Khi thực hiện quan hệ, mọi người phải tuân theo "Lễ", và chỉ
có như vậy xã hội mới có trật tự thực hiện cai trị bằng vương đạo. Khổng Tử đề
cao "Lễ" đến mức "nếu hiểu rõ giá trị của lễ giao (tế trời), lễ
xã (tế đất) và ý nghĩa của lễ đế (lễ các vua thời trước) thì việc cai trị như
ngửa bàn tay ra xem vậy " (Trung Dung), hoặc "biết dùng lễ thì cai
trị khó gì" (lý nhân - luận ngữ) : "bề trên thích lễ thì dễ sai khiến
dân", (hiến vấn - luận ngữ). Lễ nhà Tây Chu là hệ thống
"Lễ"phong phú, phức tạp và nhiều khi giáo điều gò ép. Đó là các loại
lễ tế của dân thường cho tới thiên tử ; các quy định xe ngựa, vẻ mặt khi giao
tiếp, chỗ ngồi chỗ đứng, cách đi...theo ông "Lễ" quan trọng trong
việc cai trị vì các lý do sau: thứ nhất,
nó quy định danh phận thứ bậc người trong xã hội; thứ hai, lễ có tác dụng điều chỉnh hành vi con người trong quan hệ
ứng xử, "không học lễ, không có gì làm chỗ dựa" (Quý thị - Luận ngữ);
thứ ba, "Lễ" có tác dụng
hình thành thói quen đạo đức, thí dụ như con cho cha mẹ ăn phải cung kính, nếu
không cung kính thì khác nào cho chó ngựa ăn" (cung kính dần thành thói
quen ứng xử).
Quan niệm về "chính danh"
Theo ngài
muốn cai trị trước hết phải chính danh, nghĩa là mọi vất vả phải hợp với cái
danh mà nó mang. Mỗi cái danh đều bao hàm một số trách nhiệm và bổn phận, phù
hợp với danh ấy. Chính danh là xác định rõ trật tự cai trị, thứ bậc, trách
nhiệm xã hội: ông cho rằng chính danh là hợp với tự nhiên, "Mệnh
trời", "vật các đắc kỳ sở" (Vật đều có chỗ xác định của nó), ông
cho rằng một trong những nguyên nhân của rối loạn trật tự xã hội là do mỗi
người không xác định đúng vị trí của mình, ngược lại còn tiếm quyền, tiếm lễ,
nội dung chính danh của ông đưa ra gồm: tương xứng với địa vị cai trị phải có
phẩm chất tương sứng như nhân, nghĩa, liêm ..., đồng thời chỉ sử dụng “lễ”
tương ứng với địa vị đang được thừa nhận, bề tôi là thứ hầu, đại phu không dùng
lễ của thiên tử.
Là thách thức
của người cai trị và của mọi thành viên xã hội: "vua phải cư xử cho ra
vua, tôi cho ra tôi , cha cho ra cha , con cho ra con ,"(Nhân Uyên -Luận
Ngữ). Ông nhận xét :nếu không chính danh tất loạn, nếu chính danh thì không cần
ép buộc dân cũng theo và tất "Trị".
Cai Trị
Bằng Đạo "Nhân ".
• Là chuẩn
mực ứng sử giữa người với người, là một
giá trị đạo đức xã hội với những nội dung khác nhau.
• Tự thắng
mình, thực hiện theo lễ đạo nhân (Nhân Uyên -Luận Ngữ ). Điều mình không muốn
thì đừng thực hịên ở người khác .
• Cung, khoan, tín, miến, huệ (Dương
Hoá - Luận Ngữ), nghĩa là khoan dung, cung kính giữ lòng tin, chăm chỉ, lòng
tốt) Đạo "Nhân" là phương pháp cai trị được khổng Tử tiếp cận từ quan
niệm về phẩm chất của người cai trị, nếu theo điều "Nhân" sẽ tập hợp
đươc dân và sẽ khiến dân "bề trên thích lễ, thì dân cũng kính, bề trên
thích tín thì dân không dám nói sai" (Tự Lộ - Luận Ngữ )... Ông cho rằng
chỉ khi nào thu phục được lòng dân thì mới có quốc gia cường thịnh.
Ngoài ra Khổng Tử còn nêu những vấn
đề khác có liên quan đến việc cai trị như xây dụng hình mẫu con người lý tưởng,
người quân tử, phương pháp rèn luyện đạo đức con người, giáo hoá dân ...
Như vậy, có thể nói rằng học thuyết
chính trị của Khổng Tử được xây dựng trên ba phạm trù cơ bản: nhân - lễ - chính
danh. Nhân là cốt lõi của vấn đề, vừa là điểm xuất phát nhưng cũng là mục đích
cuối cùng của hệ thống. Do vậy, có thể gọi học thuyết chính trị của Khổng Tử là
“đức trị” vì lấy đạo đức làm gốc hay “nhân trị” (chính trị dùng điều nhân).
Điều nhân được biểu hiện thông qua lễ, chính danh là con đường để đạt đến điều
nhân. Ba yếu tố đó có quan hệ biện chứng với nhau, tạo nên tính chặt chẽ của
học thuyết. Về bản chất, học thuyết chính trị của Khổng Tử là duy tâm và phản
động, vì nó không tính đến các yếu tố vật chất của xã hội mà chỉ khai thác yếu
tố tinh thần (đạo đức). Mục đích của học thuyết là bảo vệ chế độ đẳng cấp, củng
cố địa vị thống trị của giai cấp quý tộc đã lỗi thời, đưa xã hội trở về thời
Tây Chu.
1.2.2
Tư tưởng chính trị của Mạnh tử (372 - 289 TCN)
Mạnh Tử là người nước Trâu. ông đã
kế thừa và phát triển sáng tạo những tư tưởng của Khổng Tử, xây dựng học thuyết
“Nhân chính”, của mình.
Nội dung
cơ bản của tư tưởng chính trị
Về quyền
lực chính trị:
Cũng giống
như Khổng Tử, Mạnh Tử ít bàn đến cách thức tổ chức thể chế chính trị mà thường
bàn nhiều về phương pháp cai trị, ông lên án cách cai trị bằng bá đạo (bạo
lực), chủ chương cai trị bằng vương đạo (cai trị bằng đạo đức).
Ông giải
thích nguồn gốc của quyền lực nhà nước là theo ý trời - lòng dân- nhân đức có
quan hệ với nhau, vua phải quan tâm đến dân, giáo hoá dân, phải được lòng dân
mới giữ được ngôi. Vua phải chăm lo cho nhân dân "hằng sản " để
"hằng tâm", dân có no đủ mới không loạn lạc, không chống đối vua.
Quan hệ vua -
tôi là quan hệ hai chiều, vua đối với bề tôi như thế nào, bề tôi đối với vua
như thế ấy. "Dân quý nhất, xã tắc thứ hai, vua là nhẹ nhất" đây là
một yếu tố dân chủ sơ khai đã thấy rõ sức mạnh của nhân dân.
Ông ủng hộ
phân biệt đẳng cấp: quân tử lao tâm còn tiểu nhân thì lao lực.
Ông cho rằng
con người ta sinh ra vốn thiện, nên phải đề cao giáo dục, để con người dời xa
điều ác, quay trở về điều thiện.
Ngoài ra,
Mạnh Tử còn nêu ra những vấn đề chính trị khác như tổ chức thể chế chính trị
thời Tây Chu, quan hệ bang giáo hợp mệnh trời giữa nước lớn và nước nhỏ...
Kết luận:
Nhìn chung
học thuyết của Mạnh Tử đã đề cập đến những vấn đề cơ bản của lĩnh vực chính trị
như:quyền lực phong kiến, quan hệ cai trị và bị cai trị, phẩm chất thủ lĩnh
chính trị ...Tuy nhiên trên lập trường giai cấp phong kiến và lập trường triết
học duy tâm là căn bản, học thuyết chính trị của Mạnh Tử không thể không xa vào
những mâu thuẫn cả trong lý thuyết và vận dụng trong thực tiễn chính trị. Chính
vì vậy, học thuyết của ông không được phát tác dụng với xã hội đương thời[3].
1.2.3 Tư tưởng chính trị của Tuân Tử (315 - 230 TCN)
Tiểu sử:
Tuân Tử tên
là Huống, tự là Khanh, người nước Triệu. Ông sống vào cuối thời Chiến Quốc, là
thời kỳ cục diện chiến tranh "Thất hùng" đi vào giai đoạn cuối xã hội
loạn lạc, dân lành khổ sở vì chiến tranh. Khi ở nước Sở ông là môn khách của
Xuân Thân Quân từng giữ một số chức quan như quan Tế Tửu nước Tề, huyện Lệnh
Lang Lăng nước Sử khi Xuân Thân Quân mất ông bỏ quan về nhà dạy học, viết sách.
Ông có hai học trò nổi tiếng là Lý Tư (Tể tướng nước Tần) và Hàn Phi (học giả
nổi tiếng của phái Pháp gia). Tuân Tử theo Nho học phát triển Nho học theo
hướng đối lập với Mạnh Tử về một số nội dung chính trị, triết học. Ông mất 230
trước Tây lịch, thọ chừng 80 tuổi.
Nội
dung cơ bản của tư tưởng chính trị.
Ông phát
triển Nho giáo theo hướng đi sâu vào đời sống hiện thực, giải đáp những vấn đề
thực tiễn chính trị .
Ông nhấn mạnh
vai trò của người làm vua, vua là nguồn gốc nảy sinh mọi việc, là khuôn mẫu để
dân chúng noi theo, "vua là nguồn, nguồn trong thì nước trong, nguồn đục
thì nước đục" (quân đạo - Tuân Tử) ; vua là người biết tập hợp tạo nên sức
mạnh quốc gia, muốn tập hợp được thì vua phải có trí, có nhân. "Đạo là gì
? Đạo là vua, vua là gì ? Vua là người có thể tập hợp được người ta. Tập hợp
được thì giữ khéo cho người ta sống, khéo nuôi người ta; khéo đặt ra trật tự
cai trị người ta; khéo làm rõ và định việc cho người ta; khéo che đậy sửa sai
cho người ta... Bốn điều ấy mà đủ là thiên hạ theo về, thế là quần tụ người
ta" (quân, đạo -Tuân Tử); quan hệ giữa vua và dân thì vua phải thấy được
sức mạnh của nhân dân.
Về quyền
lực:
Khác các nhà
tư tưởng nho giáo đời trước Tuân Tử chủ chương nền cai trị vương đạo theo
"pháp, hậu, vương" (Theo các thời vua Hạ, Thương, Vũ)
Phương
pháp cai trị:
Tuân Tử coi
trọng việc cai trị bằng lễ và bằng pháp luật. Trước hết ông coi "Lễ"
là tất yếu, vì sự nảy sinh của nó là tất yếu, và sự tác động của nó tới trật tự
xã hội là tất yếu, còn về pháp luật theo tinh thần "Vương đạo" thưởng
phạt công bằng, ông có xu hướng đề cao pháp luật.
Kết luận:
Nếu lấy tính
thực tiễn làm tiêu chuẩn, tư tưởng chính trị của TuânTử có bước tiến quan trọng
so với Khổng Tử và Mạnh Tử, đề cao quân quyền song đòi hỏi quân quyền phải
thiết thực với cuộc sống hơn, ông đề cao "Lễ", nhưng với tinh thần lý
giải thực tế hợp lý, ông chủ chương cai trị bằng pháp luật điều mà Khổng Tử và
Mạnh Tử ít bàn đến[4].
Chương
2
SỰ TIẾP BIẾN VÀ ẢNH HƯỞNG
CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ NHO GIÁO Ở
VIỆT NAM
2.1. Sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam.
Nho giáo từ Trung Quốc đã truyền
sang Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam để hình thành một vành đai văn hoá Nho
giáo. Khi nghiên cứu sự xâm nhập của Nho giáo vào Việt Nam, tác giả Ngô Xuân
Thảo, Nông Thị Mồng có chung một nhận định: Hán Nho được du nhập vào Việt Nam
từ những năm cuối trước công nguyên, bằng những con đường khác nhau: một là: thông qua con đường của những
đội quân xâm lược được trang bị hệ tư tưởng Nho giáo; hai là: thông qua con đường truyền giáo có tổ chức của đội ngũ quan
chức người Trung Quốc được các Triều đình phong kiến Trung Quốc đánh phá thực
hiện ách thống trị Bắc thuộc ở Việt Nam, trong đó có Quang Tích, Nhâm Diên, Sĩ
Nhiếp... là những quan lại đã có nhiều nỗ lực trong việc truyền bá Nho giáo tới
Việt Nam; ba là: con đường của những thương
nhân theo đường biển đưa Nho giáo tới Việt Nam; bốn là: thông qua con đường của những dân cư tự do người Trung Quốc
có hành động chống lại triều đình và bị săn đuổi đã di cư tới Việt Nam để sinh
sống. Sự di cư của những người dân Trung Quốc này cũng góp phần đưa tư tưởng
Nho giáo vào Việt Nam.
Trong các
cách thức xâm nhập của Nho giáo vào Việt Nam thì con đường truyền giáo có tổ
chức của đội ngũ những quan lại người Trung Quốc trong suốt thời kỳ Bắc thuộc
là chủ yếu.Vì nó nằm trong chính sách chủ động âm mưu đồng hoá của các triều
đình phong kiến đối với Việt Nam.
2.2.
Sự tiếp biến tư tưởng chính trị Nho giáo của người Việt Nam.
Nho giáo được
người Việt Nam tiếp thu như thế nào? Tác giả Tô Xuân Thảo đã có những phân tích
và luận giải sâu sắc. Tác giả cho rằng: Tuy là một học thuyết có nhiều nhân tố
tích cực nhưng suốt hơn một nghìn năm Bắc thuộc, Nho giáo vẫn không có vị trí
đáng kể trong đời sống tinh thần của cộng đồng xã hội người Việt, không được đa
số người Việt hào hứng đón nhận, bởi nhiều lý do khác nhau: Nho giáo là công cụ
của kẻ thống trị ngoại bang ức hiếp nhân dân ta nên không được chấp nhận. Hơn
nữa nó cũng không phù hợp với xã hội vừa thoát thai từ chế độ Lạc Hầu, Lạc
Tướng.
Sau một thời
gian, người Giao Châu dần dần làm quen với Nho giáo, từ đó có sự thay đổi trong
nhận thức, trong thái độ đối với Nho giáo; từ phản ứng đến tiếp thu, từ xa lạ
đến gần gũi, biến công cụ của kẻ địch thành công cụ của chính bản thân mình[5].
Nét đặc trưng
của người Việt trong quá trình tiếp thu hệ thống tư tưởng Nho giáo không phải
tiếp thu hệ thống này như một hệ thống "những công thức toán" đã có
sẵn để áp đặt một cách giáo điều, máy móc vào thực tiễn của đời sống xã hội, mà
tiếp thu có chọn lọc có phát triển, người Việt đã kế thừa và phát huy những tư
duy vốn có của tổ tiên, đồng thời tiếp thu hệ thống tư duy đã phát triển qua
mấy nghìn năm của người Hán, làm phong phú vốn tri thức của mình và trở thành
những yếu tố Nho giáo mang bản sắc Việt Nam như:
Yếu tố áp dụng cho việc xây dựng một nhà nước phong kiến và một trật tự xã hội
phong kiến Việt Nam vững mạnh và phát triển.
Yếu tố tư tưởng về xây dựng các mối
quan hệ xã hội theo cấu trúc "Ngũ luân".
Yếu tố tư tưởng coi trọng dân.
Theo hướng nghiên cứu chi tiết hơn về phương
pháp người Việt đã tiếp thu Nho giáo các tác giả: Lê Bỉnh, Lê Thị Thuỷ... đã có
những nhận định sắc nét, đồng quan điểm với những nhà nghiên cứu về Nho giáo,
trong cuốn "một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam" NXB chính trị QG 1999
của tác giả Nguyễn Nam Thắng cho rằng: "Nho giáo được du nhập vào Việt Nam
từ thời kỳ Bắc thuộc, đến nước ta Nho giáo được dung hợp và hoà đồng theo cách
nghĩ của người Việt Nam". Từ khi được Việt Nam hoá, Nho giáo đã góp phần
đáng kể vào việc tạo dựng nền văn hiến Việt Nam, thành công cụ tề gia, trị quốc
và quan trọng hơn Nho giáo đã trở thành một thủ thuật chính trị để biểu đạt tư
tưởng yêu nước.
"Nhìn
vào tư tưởng chính trị Việt Nam thì ta có thể thấy sự tiếp biến tư tưởng chính
trị Nho giáo của nhân dân ta diễn ra như thế nào qua từng giai đoạn cụ thể"
2.2.1 Thời kỳ
Văn Lang - Âu Lạc:
Thời kỳ này
hoàn toàn chưa chịu sự tác động của Nho giáo vì Nho giáo chưa được du nhập vào
nước ta.
2.2.2 Thời kỳ
đấu tranh chống Bắc thuộc:
Đây là thời
kỳ nô lệ kéo dài hơn một nghìn năm (từ 179 trước công nguyên đến 938) kể từ khi
Triệu Đà xâm chiếm và chia nước Âu Lạc thành hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Khi
xâm chiếm nước ta, bọn phong kiến phương Bắc đã cho mở các lớp dạy tiếng Hán
nhằm đào tạo đội ngũ quan lại phục vụ cho chính quyền đô hộ, rồi truyền bá Nho
giáo, Phật giáo, Lão giáo ... vào nước ta. Lúc đầu, Nho giáo là công cụ của bọn
đi xâm lược, áp bức nhân dân ta nên không được nhân dân ta tiếp nhận. Hơn nữa
nó không phù hợp với một chế độ xã hội vừa thoát thai từ chế độ Lạc Hầu - Lạc
Tướng, sau một thời gian làm quen và nhận thấy những ưu điểm của Nho giáo người
Việt đã dần tiếp thu nó, song tiếp thu một cách chọn lọc "được luỹ tre
làng khúc xạ" Nho giáo thành những tư tưởng Nho giáo mang bản sắc Việt Nam
và trở thành công cụ tề gia trị quốc sau này.
2.2.3 Thời kỳ
phục hưng dân tộc : (từ thế kỷ X - XV)
Thời kỳ này
có một đặc điểm hết sức quan trọng chi phối tư tưởng chính trị ở nước ta, đó là
phật giáo. Phật giáo là quốc giáo từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ XVI, nó chi phối
mọi quan hệ chính trị trong nhà nước. Thời Lý, các tăng sư tham gia vào điều
hành nhà nước, là cố vấn của nhà vua, nhưng từ thế kỷ thứ XIV trở đi, phật giáo
giảm dần vai trò chính trị. Từ thế kỷ này trở đi, Nho giáo đã ảnh hưởng mạnh
đến mọi lĩnh vực của đời sống nước ta, lên ngôi và trở thành hệ tư tưởng chính
trị thống trị ở nước ta, chi phối và ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống chính
trị nước ta.
Khi Nho giáo
đã trở thành quốc giáo nó đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống chính trị nước ta
để hình thành những tư tưởng chính trị nổi bật như:
Tư tưởng dựa vào dân, khoan dân,
lấy dân làm gốc, coi nhân dân là lực lượng quyết định trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Các đời Lý - Trần quan tâm đến đời sống và nguyện vọng của
dân, tranh thủ được lòng dân, được nhân dân ủng hộ.
Tư tưởng đề cao đức trị, rồi các bộ
luật đầu tiên của người Việt Nam ra đời từ thời Lý - Trần với đỉnh cao là luật
Hồng Đức cũng mang những yếu tố trong nó.
Tư tưởng chính trị trong thời kỳ
này được phản ánh thông qua các đại biểu tiêu biểu, đó là những thủ lĩnh chính
trị, những trí thức lớn, những nhà văn hoá, những người hội tụ được tinh hoa
của dân tộc, như: Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Lê
Thánh Tông,.... sau đây ta xét hai đại biểu có tư tưởng chính trị ảnh hưởng của
học thuyết Nho giáo:
Trần
Quốc Tuấn:
(1228 - 1300)
Hưng Đạo
Vương Trần Quốc Tuấn là vị tổng chỉ huy quân đội nhà Trần trong kháng chiến
chống quân Nguyên, là anh hùng kiệt xuất của dân tộc ta. Ngoài tài thao lược
quân sự, ông còn là nhà tư tưởng lớn, các tác phẩm: Binh thư yếu lược, Vạn kiếp
tông bí truyền thư, Hịch tướng sĩ, là những áng hùng văn chắt lọc, đúc kết từ
chính cuộc đời chiến đấu của ông; là cống hiến vĩ đại vào binh pháp, đường lối
quân sự nước nhà. Hịch tướng sĩ còn thể hiện tư tưởng yêu nước, quyết tâm đánh
giặc của ông. Đứng trước quân Nguyên thiện chiến, tàn bạo và hùng mạnh nhất thế
giới lúc bấy giờ, Trần Quốc Tuấn đã đánh tan tư tưởng sợ địch, phát huy tư
tưởng quyết chiến, quyết thắng trong binh sĩ và nhân dân.
Tư tưởng
chính trị của ông thể hiện qua đường lối chiến lược, chiến thuật, nổi bật nhất
là tư tưởng "khoan dân":
Trần Quốc
Tuấn chủ trương thân dân, dựa vào dân để đánh giặc giữ nước, theo ông triều
đình phải thi hành chính sách "khoan thư sức dân, quan tâm đến đời sống
của dân, ông hiểu rằng không thể thắng địch nếu chỉ dựa vào quân đội, vũ khí mà
còn phải dựa vào dân" “con chim hồng hạc kia bay được cao là nhờ có sáu
xương trụ cứng, nếu không cũng chỉ như chim thường mà thôi".
Khoan dân là
dưỡng dân, sử dụng hợp lý sức dân vì đó là "kế sâu gốc bền rễ là thượng
sách để giữ nước"
Ông có khả
năng thu phục dân, huy động sức dân bằng nhân dân, công tâm trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ đất nước, ông tiễn cử với vua những vị tướng tài: Yết Kiêu, Dã
Tượng, Phạm Ngũ Lão.
Khoan dân là
biết lắng nghe tâm tư nguyện vọng của dân, ông còn biết kết hợp hài hoà quyền
lợi của dân với quyền lợi của giai cấp
phong kiến, đó là sự quan tâm đến binh sĩ: "không có cơm thì ta cho ăn,
không có áo thì ta cho mặc..." nếu giặc đến thì "không những thái ấp
của ta không còn, mà bổng lộc của các người cũng mất, gia quyến ta bị tan mà vợ
con các ngươi cũng khốn", vì vậy tất cả các tướng sĩ phải chung sức đánh
giặc, đó chính là công tác giáo dục tư tưởng chính trị trong quân sự đương
thời.
Trần Quốc
Tuấn đã nhận thấy vai trò quyết định của dân trong sự nghiệp dựng nước và giữ
nước. Dó là nhận định sâu sắc vượt thời đại. Nó bắt nguồn từ học thuyết
"nhân - chính", tức "Nhân trị" và "Đức trị" theo
tinh thần Khổng - Mạnh, song ở Trần Quốc Tuấn Nho giáo đã được cải biến phù hợp
với điều kiện xã hội, tâm lý con người Việt Nam. Tư tưởng "phụ tử thư
binh", "khoan thư sức dân" trở thành di huấn chính trị cho đời
sau.
Tư tưởng
chính trị của Nguyễn Trãi được trình bày trong các tác phẩm: Ức Trai thi tập,
Quốc âm thi tập, Dư địa chí... và được thể hiện qua thực tiễn của ông. Đó là tư
tưởng về chủ quyền quốc gia, đường lối trị nước,.... Nhưng bao chùm lên tất cả
là tư tưởng "nhân tự nghĩa" một tư tưởng chịu sự ảnh hưởng của Nho
giáo.
Tư tưởng
chính trị "nhân nghĩa" của ông được vận dụng trong cuộc kháng chiến
chống giặc là một thứ vũ khí tư tưởng có tác dụng như những đạo quân thiện
chiến đánh thắng và tư tưởng tâm lý tinh thần của kẻ địch.
"Nhân
nghĩa" là đường lối chính trị, là chính sách cứu nước và dựng nước,
"nhân nghĩa" là cơ sở đường lối trị nước và chuẩn mực trong ứng xử,
là nguyên tắc trong giải quyết công việc quốc gia, "việc nhân nghĩa cốt ở
yên dân", cứu nước trước hết phải cứu dân, đó là nét nổi bật trong tư
tưởng của Nguyễn Trãi "yêu dân là điều kiện để ổn định xã hội, "nhân
nghĩa" là lòng thương người, sự khoan dung với kẻ lầm đường lạc lối. Nếu
họ cải tà quy chính thì "cả nhà lớn bé đều được bình yên vô sự".
"Nhân
nghĩa" là trừ bạo, đánh đuổi ngoại xâm. Dân là người bị đau khổ nhất trong
cảnh áp bức bóc lột của giặc Minh "thui dân đen trên lò bạo ngược, hãm con
đỏ dưới hố tai ương" - Song "đồ binh là thứ không bạo, đánh nhau là
việc nguy hiểm, thánh nhân bất đắc dĩ mới dùng đến".
Nhân đạo, yêu
hoà bình là nét đặc sắc trong tư tưởng "nhân nghĩa" của Nguyễn Trãi:
khi kẻ thù đã thua, muốn sống thì "thần vũ không giết, ta thể lòng trời để
tỏ hiếu sinh" mà cấp thuyền, cấp ngựa cho lũ bại binh rút chạy về nước,
nhân dân ta không những đấu tranh vì hạnh phúc của chính mình, mà còn vì cuộc
sống của người Hán. Nếu quân Minh lui quân thì "không những may riêng cho
một địa phương Giao Chỉ mà cũng là may chung cho cả thiên hạ, nhân dân"
(thư gửi Vương Thông). Vậy nhân nghĩa là chủ nghĩa nhân đạo cao cả, toàn diện.
"Lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo".
Nhân nghĩa là
phải xem dân là gốc nước, dân có quan hệ tới sự an nguy của triều đại. Nguyễn
Trãi đã tổng kế thực tiễn: Sự thất bại của nhà Hồ là do phải đánh giặc một mình
vì "lòng dân không theo", giặc Minh tàn ác bị dân căm hờn mà bị tiêu
diệt. Ông khuyên nhủ các vua: "'Mến người có nhân là dân, mà chở thuyền và lật thuyền cũng là
dân". Đất nước thái bình nhân dân no đủ, vua thánh tôi hiền" là lý
tưởng chân lý của ông.
Nhận xét về
tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi tác giả Lê Bỉnh nhấn mạnh rằng: "tư
tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là nét độc đáo trong Việt Nam hoá Nho
giáo". Sinh thời Nguyễn Trãi tựu nho giáo .Tuy nhiên ông đã không học nho
giáo với kiểu sao chép, giáo điều mà trên tinh thần dân tộc và dân chủ, với
năng lực tư duy dộc lập, sáng tạo sắc sảo, Ông đã Việt Nam hoá Nho giáo. Vì
vậy" Nhân Nghĩa" là tư tưởng
đạt tới trình độ cao dựa trên thưc tế dựng nước và giữ nước. Tư Tưởng ấy hoàn
chỉnh, sâu sắc, tiêu biểu cho một xu hướng phát triển xã hội tiến bộ.
"Nhân nghĩa" là phương thức giữ nước, là vũ khí chiến đấu, là đường
lối đối ngoại, là chăm lo đến đời sống nhân dân nó chứa đựng chủ nghĩa nhân đạo
cao cả, toàn diện và là đỉnh cao của trí tuệ Việt Nam.
2.2.4 Giai đoạn chia cắt đất nước và
sự suy thoái của chế độ phong kiến (từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XX).
Đây là thời
kỳ có nhiều diễn biến, sự kiện lịch sử phức tạp có nhiều khuynh hướng tư tưởng
chính trị. Nổi bật là: tư tưởng thống trị phong kiến, điển hình nhất là tư
tưởng của vua Minh Mệnh. thứ hai: tư
tưởng yêu nước của các văn thân, sĩ phu và các phong trào của nông dân chống
thực dân phong kiến; thứ ba, tư tưởng
đổi mới canh tân đất nước; thứ tư: tư
tưởng dân chủ tư sản, tiểu tư sản .
Nhìn chung ở
những thế kỷ đầu trong giai đoạn này Nho giáo vẫn còn ảnh hưởng nhiều tới mọi
mặt văn hoá, xã hội đạo đức của nhân dân ta. Trong đó tư tưởng chính trị của
Nho giáo về đường lối xây dựng đất nước, cách cai trị đất nước...vẫn được vua,
quan, những người có chức có quyền sử dụng và áp dụng để trị quốc xây dựng một
vương triều mang màu sắc Việt Nam, đây là tư tưởng chính trị phong kiến tiêu biểu
nhất là vua Minh Mệnh, Lê Quý Đôn.
Những thế kỷ
còn lại của giai đoạn trên do hoàn cảnh đất nước có những diễn biến phức tạp,
nên có nhiều khuynh hướng chính trị khác
nhau không theo con đường của Nho giáo nữa, song bản thân các nhà tư tưởng
thường xuất thân trong các gia đình Nho học nên ít nhiều cũng thấm đượm văn hoá
Nho giáo trong tư tưởng của mình. Song tư tưởng trị quốc của Nho giáo không trở
thành tư tưởng chính và có xu hướng mờ nhạt dần. Tuy không có Nho giáo nhưng
trong cung cách ứng xử gia đình vẫn tồn tại bền vững và phổ biến cho đến tận
ngày nay.
Chủ
Tịch Hồ Chí Minh - (Người tiếp biến sáng tạo Nho
giáo)
Hồ Chí Minh
là một tấm gương thật suất sắc trong việc tiếp biến tư tưởng chính trị của Nho
giáo.
"Đối với
Nho giáo, Hồ Chí Minh nhận thấy sự bất lực của nó đối với cách mạng Việt Nam
nên Người đã phủ định Nho giáo, song đây là một sự phủ định biện chứng. Hồ Chí
Minh đã không thể không gạt bỏ Nho giáo trên con đường cứu nước của mình, nhưng
người đã không "Đổ chậu nước bẩn cùng đứa trẻ" mà Người đã cương
quyết gạt bỏ những cái cốt lõi lạc hậu của Nho giáo, để rồi sau đó giữ gìn và
phát huy những yếu tố hợp lý của Nho giáo nhằm phục vụ cho sự nghiệp cách mạng”[6].
Người đã kế
thừa những tư tưởng chính trị tốt đẹp của Nho giáo như:
Thấy được sức mạnh của nhân dân, một nhà nước của dân, do dân và vì dân,
"Gốc có vững thì cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân".
Người khẳng định nhân dân là nguồn gốc của quyền lực nhà nước, "nước ta là
nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều vì dân”.
Người đã sử
dụng những khái niện, phạm trù của Nho giáo với nội dung mới, trình độ mới để
biểu đạt tư tưởng yêu nước và việc tuyên truyền của chủ nghĩa Mác - Lênin vào
nước ta.
Người đã nêu
ra những hệ giá trị đạo đức cao cả nhân đạo như: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín...và
chính bản thân người cũng là tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng. Người có
những nhận định có giá trị là kim chỉ nam cho chúng ta nghiên cứu Nho giáo để
áp dụng vào xây dựng bộ máy nhà nước, các phương thức quản lý nhà nước, cán
bộ,công chức nhà nước...mà đang đặt ra những vấn đề cần quan tâm nghiên cứu để
áp dụng vào việc đổi mới.
Chương 3
NHO GIÁO
VỚI CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI NƯỚC TA HIỆN NAY
3.1.
Định hướng kế thừa Nho giáo:
Có thể nói
rằng, Nho giáo là một học thuyết lâu dài và cho đến nay vẫn được khá nhiều
người chấp nhận một cách tự nguyện. Ở Việt Nam, Nho giáo được Việt hoá qua các
thời đại kể từ khi nó được truyền vào nước ta. Vì vậy, cùng với việc tiếp thu
các nền văn hoá, văn minh khác, trong bối cảnh đất nước thực hiện chính sách mở
cửa, hội nhập và toàn cầu hoá bước vào nền kinh tế tri thức hôm nay, chúng ta
phải tiếp tục biến những tinh hoa Nho giáo vào trong công cuộc đổi mới hiện
nay.
Để kế thừa và
phát huy có hiệu quả những giá trị nho giáo cần phải:
Một
là, xuất phát từ phương pháp biện chứng, Nho giáo là một hệ
thống tư tưởng chính trị thống trị của giai cấp thống trị. Nho giáo vừa có
những ưu điểm, đóng góp tích cực, vừa có những hạn chế, ảnh hưởng tiêu cực đối
với đời sống văn hoá xã hội cho nên một mặt, chúng ta tránh tôn sùng Nho giáo,
cho Nho giáo là chính đạo độc tôn, mặt khác cần tránh quan điểm siêu hình,
phiến diện một chiều là quan điểm phủ định sạch trơn nho giáo.
Hai
là: Toàn cầu hoá là xu thế tất yếu khách quan trong thời đại
hiện nay. Mở cửa, hội nhập là cơ hội tốt
nhất cho chúng ta tiếp thu các nền văn hoá, văn minh thế giới cả nền văn minh
phương Tây và cả nền văn minh phương Đông từ thời kỳ xa xưa đến nay.
Ba
là: Nho giáo ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội: không
chỉ trong văn hoá, tư tưởng, mà cả trong chính trị - xã hội, trong học thuyết
và vì vậy cũng ảnh hưởng đến xây dựng kinh tế, xây dựng văn hoá, xây dựng con
người và nhiều mặt khác. Đó là những yếu tố mà thời nào chúng ta cũng phải chú
ý .
3.2.
Kế thừa và phát huy những giá trị của Nho giáo trong công cuộc đổi mới đất
nước.
3.2.1 Kế thừa và phát triển tư tưởng
chính trị của Nho giáo trong vấn đề quản lý nhà nước.
Ở Việt Nam
trong truyền thống, các tư tưởng Nho giáo đã có những tác động sâu sắc đến
những tầng lớp lãnh đạo của nhà nước phong kiến. Ở Việt Nam, từ thế kỷ X đến
thế kỷ XIV, giai cấp cầm quyền đã nhận thấy ưu điểm của Nho giáo trong việc
củng cố vương triều, tổ chức của nhà nước, thiết lập quan hệ chặt chẽ với nhà
nước và nhân dân. Tứ thư, Ngũ kinh đã từng là cơ sở cho việc chọn quan lại
trong các Triều đình phong kiến Việt Nam trước đây. Sau cách mạng tháng Tám
thành công năm 1945, trong nhiệm vụ xây dựng nhà nước cách mạng, vấn đề đặt ra
đối với các tư tưởng đã từng ảnh hưởng đến Việt Nam là đánh giá cao vai trò của chúng, đặc biệt là Nho giáo.
Hồ Chí Minh
là một người đã từng tiếp thu có chọn lọc những tư tưởng chính trị của Nho
giáo.
Ngày nay,
dưới ánh sáng đổi mới của Đảng, Việt Nam chúng ta đang trên con đường thực hiện
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nền kinh tế thị trường xã hội
chủ nghĩa và các chính sách đổi mới của Đảng đã làm khởi sắc bộ mặt của xã hội
Việt Nam. Nhà nước trong thời kỳ chuyển đổi đã có những đóng góp to lớn vào
thành tựu của đất nước, các phương thức quản lý nhà nước, cán bộ, công chức nhà
nước... đang đặt ra những vấn đề cần quan tâm nghiên cứu để đổi mới.
Trong việc
hoàn thiện quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay chúng ta đương nhiên phải tiếp
thu những lý thuyết hiện đại về quản lý nhà nước. Nhưng để trong việc quản lý
nhà nước có hiệu quả, chúng ta cần tính đến sự tiếp thu một cách sáng tạo những
hạt nhân hợp lý của những tư tưởng về
quản lý nhà nước của Khổng Mạnh. "Việt Nam là một xã hội phương Đông, Nhà
nước Việt Nam phải có những đặc thù của nhà nước phương Đông, tiếp thu được
những lý thuyết hiện đại về quản lý nhà nước đồng thời kết hợp các hạt nhân hợp
lý trong các tư tưởng về quản lý nhà nứơc của truyền thống phương Đông, đặc
biệt là Nho giáo"[7].
Vậy chúng ta
có thể vận dụng những tư tưởng quản lý nhà nước của nho giáo với những tư tưởng
sau :
Thứ nhất: Một nhà nước do dân, vì dân,
các chính sách quản lý nhà nước phải phát huy được sức mạnh của nhân dân: tư
tưởng trên được rút ra từ tư tưởng "nhân trị ","đức trị"
trong Nho giáo, thực chất đây chính là những tư tưởng về Nhà nước vì dân, đây
là tư tưởng mà vẫn còn giá trị đối với chúng ta ngày nay...
Điều 2: Hiến
pháp Việt Nam đã khẳng định nhà nước Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân, vậy nó phù hợp với nội dung tư tưởng Nho gia.
Chủ Tịch Hồ
Chí Minh, người đã thấm nhuần các giá trị tiến bộ của tư tưởng Nho giáo, đã sớm
chỉ ra cho chúng ta thấy sức mạnh của nhân dân một nhà nước do dân: "gốc
có vững thì cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân". Người cũng
đã dạy phải lấy dân làm gốc. Đó là sự kế thừa các giá trị tiến bộ của các nhà
tư tưởng đi trước. Nhưng người xưa mới chỉ thấy sức mạnh của nhân dân, mà chưa
thấy nhân dân là người chủ quyền cai trị, tức là quyền lực nhà nước, Chủ Tịch
Hồ Chí Minh trên cơ sở thấy được sức mạnh to lớn của nhân dân đã đi đến khẳng
định rằng, nhân dân là nguồn gốc của quyền lực nhà nước : "nước ta là nước
dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân".
Như vậy trong
nhà nước ta, nhân dân không những là một sức mạnh to lớn, mà con là nguồn gốc
của quyền lực nhà nước. Do vậy, mọi công việc của nhà nước đều vì lợi ích của
nhân dân, xuất phát từ ý nguyện của nhân dân. Còn trách nhiệm của người cầm
quyền là phải làm "người đầy tớ trung thành của nhân dân".
Thứ hai: coi trọng vai trò của yếu tố
con người trong quản lý nhà nước: tài năng đạo đức cán bộ, công chức nhà nước.
Nho giáo đề
cao vai trò của con người trong việc thực hiện chính sách của nhà nước. Nho
giáo nói đến vấn đề trị nước là đều gắn với chủ thể là con người: vua, quân
tử…yếu tố con người có vai trò quyết định. Trong nhiều bất cập của quản lý Nhà
nước Việt Nam hiện nay, đôi khi không phải lý do từ bộ máy tổ chức hay chính là
thể chế mà chính là con người thực hiện. Tình trang tham nhũng là một chứng
minh cho việc kém hiệu quả của việc lý Nhà nước có nguyên nhân từ yếu tố con
người. Trong nhiều trường hợp chính sách quản lý Nhà nước không phải không tốt,
nhưng khi được triển khai trong thực tế, thì chính do con người thực hiên do
thiếu khả năng, thiếu đạo đức, vì những lợi ích cá nhân mà đã làm cho mục đích
tốt đẹp của chính sách không đạt được. Trong các nội dung hoàn thiện việc quản
lý Nhà nước Việt Nam hiện nay, phải đặc biệt quan tâm đến vấn đề cán bộ, công
chức.
Nho giáo đã
chỉ ra rằng, người quản lý Nhà nước phải là người hiền, tức là người quân tử,
người có tài đức. Nho giáo nhấn mạnh người quản lý Nhà nước phải học nhiều để
có tài, có đức mới đáng làm người lãnh đạo thiên hạ. Những yêu cầu này cũng
đúng với đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay ở nước ta. Tuy nhiên nội dung có
khác. Tài năng không phải là lục nghệ, đạo đức không phải đạo đức phong kiến mà
là đạo đức xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "đạo đức ngày càng
cao rộng hơn. Không phải chỉ có hiếu với bố mẹ, mà còn chung với nước, hiếu với
dân. Đạo lí của các cụ ngày xưa nêu lên không phải ai cũng làm được, vì con
người sống trong xã hội cũ là xã hội người đi bóc lột người, quan hệ giữa người
với người thường là áp bức, là xấu. Bây giờ trong xã hội mới, không có áp bức,
bóc lột, ai cũng có thể vươn tới điểm cao đạo đức cách mạng. Những gương thánh
hiền ngày xưa chỉ có mấy chục và là chuyện của nước ngoài, chuyện tưởng tượng
ra. Còn thánh hiền ngày nay bao gồm hàng triệu con người có thật trong nhân dân
Việt Nam ta"[8].
Phần thiếu
hụt cơ bản nhất của đội ngũ cán bộ công chức quản lý Nhà nước hiện nay là quản
lý hành chính Nhà nước, pháp luật, ngoại ngữ, tin học và kiến thức do đòi hỏi
của nền kinh tế khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, xây dựng Nhà nước pháp
quyền và mở cửa hội nhập quốc tế. Đội ngũ công chức phục vụ sự nghiệp có trình độ chuyên môn không theo kịp, tụt
hậu so với thế giới. Cán bộ chính quyền cơ sở số lượng đông nhưng chất lượng
thấp; cá biệt ở một số vùng miền núi dân tộc, cán bộ còn mù chữ.
Như vậy vấn
đề đặt ra trước hết là phải tăng cường việc đào tạo cán bộ công chức. Việc
tuyển dụng nhân sự trong các cơ quan hành chính Nhà nước phải căn cứ vào tài
năng của đối tượng. Người có trình độ phải được bố trí vào vị trí xứng đáng
trong các cơ quan nhà nước. Người không có tri thức, không có tài năng thì
không xứng đáng để làm người quản lý đất nước, theo tư tưởng của Nho giáo.
Thứ ba: Phân phối quân bình - Nhà nước
phải đóng vai trò là người điều tiết quan bình trong xã hội, hạn chế sự phân
hoá giàu nghèo.
Nho gia nói
rất nhiều đến sự phân phối quân bình để xã hội không có người giàu quá, kẻ
nghèo quá. Đây là một ý tưởng còn ý nghĩa lớn đối với chúng ta hiện nay, trong
thời kỳ đổi mới đất nước ngày nay chúng ta phải kế thừa phát huy và sáng tạo để
đưa tư tưởng tiến bộ này áp dụng vào chính sách của Nhà nước và đời sống nhân
dân đem lại sự công bằng bình quân cho xã hội ta.
Từ khi Việt
Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đời sống
của nhân dân ta được cải thiện đáng kể. Nhiều hộ gia đình đã thích ứng nhanh
chóng với cơ chế kinh tế mới và làm giàu một cách hợp pháp. Những hộ giàu tăng
đáng kể. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường cũng tạo ra một sự phân hoá giàu
nghèo ngày càng cao. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã nhận định; "Mức
sống nhân dân, nhất là nhân dân ở một số vùng quá thấp. Chính sách tiền lương
và phân phối trong xã hội còn nhiều điều bất hợp lý. Sự phân hoá giàu nghèo
giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng dân cư tăng lên nhanh
chóng"[9].
Chính vì vậy Đảng ta đặt ra nhiệm vụ phải " thực hiện công bằng trong xã
hội ", "thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo, thông qua những
biện pháp cụ thể, sát với tình hình từng địa phương, sớm đạt mục tiêu không còn
hộ đói, giảm mạnh các hộ nghèo".
Vậy nên, Nhà
nước phải áp dụng tư tưởng của Nho giáo để có chính sách phân phối quân bình
trong xã hội, thu dần khoảng cách và trình độ phát triển giữa các vùng, các dân
tộc, các tầng lớp dân cư, giảm bớt sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội.
Thứ tư:
Tiết kiệm trong việc sử dụng tài sản của Nhà nước và nhân dân.
Các nhà Nho
đều đưa ra tư tưởng là phải tiết kiệm trong việc sử dụng tài sản của Nhà nước
và nhân dân. Tư tưởng này vẫn còn có giá trị lớn đối với chúng ta, nhất là
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay. Vậy hiện nay, để
phát triển đất nước, chúng ta không thể không thực hiện chính sách tiết kiệm sử
dụng một cách hợp lý tài sản của quốc gia.
Nhà nước phải
có chính sách sử dụng một cách có hiệu quả, tiết kiệm tài sản của quốc gia. Nhà
nước ta phải có chính sách động viên, khai thác, sử dụng tối đa các nguồn lực
để tập trung cho sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Phải
coi trọng nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả trong phân bổ và sử dụng các nguồn lực
của đất nước, thể hiện trong chi tiêu thường xuyên và trong các dự án đầu tư
của Nhà nước, các doanh nghiệp và toàn xã hội. Chính sách và cơ chế tài chính
tiền tệ phải hướng dẫn các thành phần kinh tế sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm
các nguồn lựccó sẵn, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm đảm bảo mục tiêu phát
triển kinh tế của đất nước.
Hơn nữa Nhà
nước cũng phải tăng cường các biện pháp chống lại những tác nhân làm hư hao,
thất thoát tài sản của Nhà nước và của nhân dân như tham nhũng, lãng phí. Nước
ta còn nghèo, dân ta còn nhiều khó khăn nên Nhà nước cùng với việc phải có kế
hoạch sử dụng thật tiết kiệm hiệu quả tài sản của nước, của dân, còn phải kiên
quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí tạo một cơ sở hợp hiến pháp có công
cuộc chống tham nhũng, chống lãng phí, tiết kiệm để phát triển đất nước.
3.2.2. Đường
lối trị nước của Khổng Tử và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền ở nước ta hiện nay.
Khổng Tử đề
cao chủ trương trị nước bằng phương pháp "Đức trị". Vậy nên ngày nay
chúng ta đang quản lý Nhà nước bằng pháp luật thông qua bộ máy công quyền ngày
càng được hoàn thiện. Tuy nhiên một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam sẽ hoàn chỉnh, tốt đẹp hơn nếu cùng với nó và bên cạnh nó chúng ta tiến
hành xây dựng củng cố một nền đạo đức mới được chắt lọc và phát triển những
tinh hoa đạo đức của dân tộc, trong đó có những giá trị đạo đức được vun đúc,
thẩm thấu giá trị của Nho giáo. Bộ máy Nhà nước sẽ được hoàn thiện nhanh chóng
hơn khi chúng ta biết mở mang việc học, công bằng chặt chẽ trong tuyển dụng và
đặc biệt biết tiến cử người có đức có tài, đồng thời miễn chức, sa thải những
kẻ thoái hoá, biến chất. Nền pháp trị của chúng ta ngày càng được củng cố nếu
mọi sự chừng trị, hình phạt đều đúng người, đúng tội và ngày càng thống nhất
giữa tình và lý[10].
3.2.3. Phải
tiếp thu tư tưởng học tập, rèn luyện, tu dưỡng và coi trọng việc dạy học và học
theo tinh thần của Khổng Tử: "Dạy không biết chán, học
không biết mỏi" cũng mang một nét chính trị mới:
"Khổng
Tử" là người thầy vĩ đại của muôn đời, Khổng Tử là khuôn mẫu mô phạm cho
những người thầy trong suốt mấy nghìn năm trở lại đây, xứng đáng được tôn sùng
là "Vạn thế sư Biểu". Sự tôn sùng này không phải chỉ bởi tư tưởng
chính trị bất phàm được ngàn đời nhắc đến mà đặc biệt vì tính mô phạm do kết
hợp được sự nghiệp giáo dục và phấn đấu chính trị "[11].
Là một người
thầy vĩ đại Ông đã đưa ra những phương pháp giáo dục:
Một
là: gợi mở tư duy - có nguyên cớ mới giảng dạy (khải phát tư
duy, nhân tài thí giáo).
Hai
là: học để ứng dụng - lời nói và việc làm phải nhất trí( học để
trí dụng -ngôn hành nhất trí).
Ba
là: khiêm tốn hiếu học - thái độ nghiêm túc
Tư tưởng của
ông về việc học tập và dạy học là "dạy không biết chán, học không biết
mới".
Tư tưởng của
ông về rèn luyện, tu dưỡng là:
Nội tỉnh bất
cứu (luận trị xét mình nên không cần lo lắng có khuyết tật): khắc kỷ luật kỷ
(giữ mình, đưa mình vào khuôn khổ); xuất phu bất khả đoạt trí (dù là kẻ bình thường
cũng không định đoạt, mất ý trí của mình); nhân ái, ái nhân yêu thương người);
nhân chính danh thuận; trọng nghĩa khinh lợi; tâm huyết với giáo dục[13]. Sự
tiếp biến tư tưởng rèn luyện, tu dưỡng, học tập và coi trọng việc học của nho
giáo (Khổng Tử) ở nước ta diễn ra từ rất sớm, các triều đại phong kiến Việt Nam
đã kế thừa để xây dựng một nền giáo dục
cho quốc gia, việc tuyển và đào tạo nhân tài cho đất nước: Như thời Lý năm 1070
đã xây dựng Quốc tử giám, các sách Nho học được sử dụng vào làm sách dạy và học chính trong trường .
Trong công
cuộc đổi mới đất nước ngày nay đã có nhiều phương pháp dạy và học mới, hiện đại
song ta nên tham khảo tiếp thu những tư tưởng về giáo dục tiến bộ của Nho giáo
(Khổng Tử ) về rèn luyện, tu dưỡng, học
tập để đem lại hiệu quả cao trong công tác giáo dục, đó là cung cấp những con
người có đức, có tài để phục vụ đất nước trong tinh hình hiện nay. Vì vậy học
tập theo tinh thần của Khổng Tử "dạy không biết chán, hoc không biết mỏi " nên được áp dụng để tạo một
tinh thần học tập tốt cho thanh, thiếu niên học sinh, sinh viên ,
mọi đối tượng trong xã hội ngày nay cũng là một việc cần thiết trong công tác
chính trị.
3.2.4 Việc
xây dựng con người Việt Nam. Mới theo hình mẫu Nho giáo (đức trị
- lễ trị ) cũng có ý nghĩa chính trị sâu sắc.
Tư tưởng Nho
giáo về xây dựng con người phải có tứ đức" cần, kiệm, liêm chính, chí công
vô tư "và theo ngũ luận: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín đây cũng là những tư
tưởng tiến bộ của Nho giáo và đã được nhân dân tiếp thu từ lâu đời. Song đối
với công cuộc đổi mới đất nước ngày nay, dưới tác dụng của kinh tế thị trường có nhiều yếu tố tiêu cực ảnh hưởng
đến nhân phẩm con người đặc biệt là đội ngũ công nhân viên chức, cán bộ lãnh
đạo cũng trở thành một nét chính trị mới trong thời đại ngày nay. Vì vậy việc
áp dụng tư tưởng trên của Nho giáo có ý nghĩa cấp thiết đối với toàn xã hội ta
hiện nay, để sao cho "hoà nhập" mà không "hoà tan". Trong
đó việc giáo dục - đào tạo hình mẫu con người mới nước ta hiện mang trong mình
những phẩm chất tốt đẹp theo tư tưởng của Nho giáo là trọng tâm và việc bồi
dưỡng những phẩm chất đó cho cán bộ Đảng, cán bộ lãnh đạo nhà nước là việc cấp
thiết mang tính chất chính trị rõ nét.
Ngoài ra việc
tiếp biến những tư tưởng của Nho giáo về đạo đức trong gia đình cũng là một nét
cần quan tâm của công tác chính trị đất nước, bởi vì theo Khổng Tử là phải
"Tề gia, Trị quốc, Bình thiên hạ".
KẾT LUẬN
Qua việc phân tích và làm rõ tư tưởng
chính trị của Nho giáo trên đây ta thấy bên cạnh những mặt tiêu cực, còn có
những mặt tích cực của nó, thậm chí nhiều mặt và nhiều yếu tố chính trị có ý
nghĩa lớn đáng trân trọng. Trong thực tế nhiều khi chúng ta chỉ thấy mặt tiêu
cực của Nho giáo, mà chưa chú ý đúng mức đến mặt tích cực như trong các phương
diện đạo đức văn hoá gia đình,… đặc biệt là phương diện chính trị. Vì vậy bên
cạnh khắc phục những mặt tiêu cực, với tinh thần đánh giá khách quan, khoa học
để tìm ra những tư tưởng chính trị tích cực, đúng đắn để tiếp thu, kế thừa và
phát triển nó vào lĩnh vực chính trị của nước ta, cần quan tâm kế thừa vận dụng
những tư tưởng tích cực của Nho giáo vào việc tu dưỡng, rèn luyện bản thân,
Đảng và bộ máy chính trị cũng cần rút ra những bài học bổ ích.
Trong điều kiện đất nước hiện nay thực
hiện kinh tế thị trường mở cửa với nhiều thách thức gắt gao và thời cơ lớn, có
tác động sấu và tác động tốt đến toàn bộ các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo
dục… song đặc biệt nhất là lĩnh vực chính trị với việc duy trì định hướng xã
hội chủ nghĩa khỏi chệch hướng. Để giúp cho đất nước có tình hình chính trị ổn
định và vững, một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc … thì việc kế
thừa tiếp thu những yếu tố tích cực của Nho giáo về chính trị là việc quan
trọng và có tính cấp thiết.
Từ mẫu hình của nền chính trị, văn hoá
chính trị của Hồ Chí Minh: "Hồ Chí Minh người đã đổ chậu nước bẩn đi và
giữ lại đứa bé kháu khỉnh lại"[14], chúng ta phải quán triệt
sâu sắc nhiệm vụ, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận chính trị,
là một nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng lý luận chính trị trong tình hình
mới mà Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX đã đề ra.
Hiện nay trong bối cảnh quốc tế đầy
biến động phức tạp và sâu sắc trật tự thế giới mới chưa hình thành. Trong nước thì đang thực hiện sự nghiệp đẩy
mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Hoàn cảnh này vừa có những thuận
lợi cơ bản, vừa có những thách thức to lớn nghiệt ngã về mất định hướng chính
trị. Vậy càng phải chú trọng công tác tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận
chính trị làm phong phú kho tàng kiến thức của mỗi người, mỗi gia đình, mỗi dân
tộc phục vụ sự nghiệp cách mạng chung của đất nước hiện nay đồng thời cần phải
phát triển lý luận chính trị làm cơ sở cho Đảng hoạch định đường lối, chiến
lược, sách lược đúng đắn, sáng tạo. Do đó việc tìm hiểu nghiên cứu tư tưởng
chính trị Nho giáo là một việc làm cần thiết, đúng đắn, sáng tạo để góp phần
vào sự thiết lập một nền chính trị vững, mạnh cho đất nước. Qua đó góp phần ổn
định tình hình chính trị - an ninh trật tự để thu hút đầu tư trong hoàn cảnh
nước ta hiện nay là có ý nghĩa to lớn.
Với tất cả những vấn đề nêu trên đây,
qua việc làm rõ tư tưởng chính trị của Nho giáo và ảnh hưởng của nó ở Việt Nam,
nó có ý nghĩa đối với bản thân và mọi người. Đó là qua đây sẽ giúp cho chúng ta
hiểu thêm, biết thêm về một học thuyết, một trào lưu tư tưởng có ảnh hưởng lớn
trên thế giới, qua đó để tìm ra cái hay, cái đẹp những hạt nhân hợp lý để vận
dụng nó vào hình thành tư tưởng, hoạt động thực tiễn của bản thân, gia đình, xã
hội với đất nước trong công cuộc đổi mới hiện nay.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bồi dưỡng ngắn hạn về Khoa học
Tôn giáo - Viện nghiên cứu Tôn giáo – Hà Nội – 2000.
2. Chính trị học đại cương – NXB
Chính trị Quốc gia Hà Nội – 1999.
3. Chính trị học dưới dạnh hỏi và
đáp - GS.TS Dương Xuân Ngọc - TS Lưu Văn An - NXB Lý luận Chính trị học - 2005.
4.. Đại cương lịch sử tư tưởng Trung
Quốc - NXB Giáo dục 1997 Lê Văn Quán.
5. Giới thiệu tóm tắt kết quả đề tài
khoa học - 1993 - 2003. PGS.TS Nguyễn Cúc - TS Ngô Ngọc Thắng (đồng chủ biên)
phân viện Hà Nội - NXB Chính trị Quốc gia 2003.
6. Hệ tư tưởng học – TS. Lương Khắc
Hiếu - Học viện Báo chí và Tuyên truyền – Hà Nội – 2002.
7. Khổng Tử - Nguyễn Hiến Lê - NXB
Văn hoá thông tin 2001
8. Lịch sử văn minh Trung Quốc.
9. Lịch sử tư tưởng chính trị Trung
Quốc - TS Dương Xuân Ngọc - NXB Chính trị Quốc gia - 2001.
10. Nho giáo - Trần Trọng Kim - NXB
Văn học 2003.
11. 5000 năm văn hoá Trung Hoa -
Dương Lực- NXB Văn hoá. thông tin - 1999.
12. Vấn đề quản lý Nhà nước trong
triết học Trung Quốc cổ đại - Nguyễn Anh Tuấn (chủ biên) - NXB Đại học Quốc gia
TP. HCM - 2002.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 2
4. Phương pháp nghiên cứu 2
5. Kết cấu đề tài 2
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về tư tưởng chính trị của Nho giáo 3
1.1. Sự ra đời và phát triển của Nho giáo 3
1.1.1. Sự
ra đời của Nho giáo 3
1.1.2. Sự
phát triển của Nho giáo 4
1.2. Những tư tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo 5
1.2.1. Tư
tưởng chính trị của Khổng Tử (551 – 478 TCN) 5
1.2.2. Tư
tưởng chính trị của Mạnh Tử (372 – 289 TCN) 8
1.2.3. Tư
tưởng chính trị của Tuân Tử (315 – 230 TCN) 8
Chương 2: Sự tiếp biến và ảnh hưởng của giá trị Nho giáo ở Việt Nam 10
2.1. Sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam 10
2.2. Sự tiếp biến tư tưởng chính trị Nho giáo của người Việt
Nam 10
2.2.1.
Thời kỳ Văn Lang – Âu Lạc 11
2.2.2.
Thời kỳ đấu tranh chống Bắc thuộc 11
2.2.3.
Thời kỳ phục hưng dân tộc (từ thế kỷ X - XV) 12
2.2.4.
Giai đoạn chia cắt đất nước và sự suy thoái của chế độ phong kiến (từ thế kỷ
XVI đến đầu thế kỷ XX) 14
Chương 3: Nho giáo với công cuộc đổi mới nước ta hiện nay 16
3.1. Định hướng kế thừa Nho giáo 16
3.2. Kế thừa và phát huy những giá
trị của Nho giáo trong công cuộc đổi mới đất nước 16
3.2.1.
Kế thừa và phát triển tư tưởng chính trị của Nho giáo trong vấn đề quản lý Nhà
nước 16
3.2.2.
Đường lối trị nước của Khổng Tử và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền ở nước ta hiện nay 20
3.2.3.
Phải tiếp thu tư tưởng học tập, rèn luyện, tu dưỡng và coi trọng việc dạy học
và học theo tinh thần của Khổng Tử 21
3.2.4.
Việc xây dựng con người Việt Nam 22
KẾT LUẬN 23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 24
[7](1) Vấn đề
quản lý Nhà nước trong triết học Trung
Quốc cổ đại, NXB TPHCM 2002 - Nguyễn Anh Tuấn, tr.138
Có thể bạn muốn biết?
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét