Giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ Đảng viên cơ sở ở thị xã Ninh Bình trong thời kỳ mới

07:43 |

Giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ Đảng viên cơ sở ở thị xã Ninh Bình trong thời kỳ mới


Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa khi bàn và đánh lĩnh vực nào, chúng ta cũng đều quan tâm đến vấn đề hiệu quả, nhất là hiệu quả hoạt động chính trị tư tưởng. 
Vậy, muốn làm rõ quan niệm về hiệu quả công tác chính trị tư tưởng phải làm rõ  quan niệm về chính trị tư tưởng, làm rõ nội hàm của quan niệm này. Chúng ta đánh giá hiệu quả chính trị tư tưởng của Đảng cũng cần phải bắt đầu thống nhất quan niệm về chính trị tư tưởng của Đảng nhằm: Phát triển hệ tư tưởng của Đảng hình thành phát triển cương lĩnh, đạo luật, cơ sở của Đảng trong từng giai đoạn, từng thời kỳ. Truyền bá hệ tư tưởng, truyền bá cương lĩnh, đường lối, cơ sở của Đảng trong xã hội để xây dựng thế giới quan khoa học. Nhân sinh quan cộng sản, xây dựng niềm tin cho cán bộ, Đảng viên trong nhân dân vào mục tiêu lý tưởng cách mạng, niềm tin vào đường lối, cơ sở, vào sự lao động  của Đảng và nhân dân. Cổ vũ, đông viên, giai cấp tự giác, chủ động, tích cực thực hiện nhiệm vụ của Đảng. Xây dựng đời sống xã hội tỉnh nhà cao đẹp mà điều cốt lõi là bồi dưỡng con người mới XHCN. Cùng vời công tác tổ chức,  xây dựng Đảng mạnh về chinh trị, tư tưởng và tổ chức. Đó cũng là 5 nội dung chủ yếu là thước đo cơ bản để đánh giá hoạt động của công tác tư tưởng của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng  khẳng định:”Muốn có CNXH phải có con người CNXH”. Ngày nay, trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, xây dựng đất nước cán bộ Đảng viên vững vàng về chính trị có trình độ chuyên môn cao là đòi hỏi tất yếu. 
Đối với Đảng và nhà nước ta, giáo dục là cách tốt nhất để nâng cao trình độ nhân thức của cán bộ Đảng viên, cũng là nâng cao trình độ, trí tuệ của toàn Đảng. Như những điều biết không có  trí tuệ thì không thể lao động được.  Ngay từ buổi đầu cách mạng, việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam thông qua những buổi học của:”Chủ nghĩa thanh niên cách mạng đồng chí Hội” một hình thức của giáo dục lý luận chính trị do Chủ Tịch Hồ Chí Minh( khi đó người tên la Nguyễn ái Quốc trực tiếp giảng day). Mà chúng ta đã có những lớp cán bộ đầu tiên rất kiên cường va hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. 
Nội dung giáo dục lực lượng chính trị là giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tương Hồ Chí Minh, cương lĩnh, điều lệ trong các nghị quyết của Đảng, cuộc sống pháp luật, pháp lệnh nhân dân. Đảng ta đã xác định chủ nghĩa Mác - Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động của Đảng và cách mạng.  Mọi thắng lợi hay vấp váp tổn thất của cách mạng đều liên quan trực tiếp đến việc Đảng ta có nhận thức và vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh hay không? Vì vậy của chủ nghĩa Mác - Lênintư tưởng Hồ Chí Minh là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công tác CTTT,  cũng là yêu cầu của sự nghiệp cách mạng.   chủ tịch Hồ Chí Minh đã dậy : “ Đối với công tác kháng chiến và kiến quốc lý luận là rất quan trọng.  Không hiểu lý luận như người mù đi đêm” “Đảng muốn đứng vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt,  trong Đảng ai cũng phải hiểu,  theo chủ nghĩa ấy” 
Mục đích của giảng dậy lý luận CTTT là nhàm giúp cho cán bộ, Đang viên không ngừng nâng cao trình độ thế giới quan chủ nghĩa Mác – Lênin, người sỹ quan cách mạng, phương pháp luận đúng đắn,  từ đó củng cố niềm tin vững chắc vào mục tiêu lý tưởng vào sự nghiệp của Đảng,  năng lực tư duy lý luận và nhằm “Làm cho thế giới quan chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống”
Tuy nhiên để đạt được những mục đích như vậy đòi hỏi sự nỗ lực của cả hai phía: Phía chủ thể giáo dục và phía đối tượng giáo dục; phải coi việc giảng dậy, học tập lý luận chính trị là nhu cầu là trách nhiệm, nghĩa vụ của cán bộ Đảng viên. Đây cũng là thước đo về phẩm chất CT,  phẩm chất đạo đức của người cán bộ đảng viên. Ngày nay tuy đời sống vật chất dần dần được nâng cao, cuộc sông cơ bản được cải thiện.  Cùng với nó là sự ảnh hưởng của mặt trái của thị trường, ảnh hưởng của các trào lưu văn hoá phi vô sản. Vì vậy một số cán bộ Đảng viên tha hoá về đạo đức, phai nhạt về lý tưởng cộng sản, người đó thường mơ hồ về chính trị và đặc biệt hạn chế về tư duy đến việc xử lý các công việc mang tính khách quan, duy y chí… Tình hình công tác tư tưởng của đội ngũ cán bộ Đảng viên ở tỉnh Ninh Bình cũng không năm ngoài thực trạng chung đó. Do vậy trước yêu cầu  nhiệm vụ đổi mới  của cách mạng hơn bao giờ hết, công tác giáo dục lý luận giáo dục, lý luận chính trị với việc  hình thành tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ cơ sở là nhiệm vụ cấp bạch hiện nay. Chúng ta cần phải đặt công tác giáo dục lý luận chính trị  trong điều kiện hiện nay trở thành nếp sinh hoạt hàng ngày ở mọi lúc mọi nơi, là tiêu chí đánh giá, xếp loại cán bộ Đảng viên. Bên cạnh đó chúng ta cũng nhận thấy: công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đi vào chiều sâu. Chúng ta sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá, phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế, do đó yêu cầu năng lực tư duy trong trình độ tri thức nhằm phát huy những mặt mạnh, khắc phục mặt yếu để phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững là một vấn đề  rất bức thiết. Thực tiễn đó đặt ra những vấn đề mới mẻ và phức tạp cho Ninh Bình, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, Đảng viên phải có khả năng tư tưởng đúng đắn đúng đắn  các qui luật phát triển kinh tế không chỉ của tỉnh nhà mà cả của đất nước phù hợp với thời đại và ý chí nguyện vọng của nhân dân, đồng thời có khả năng quản lý, điều hành qua thời phát triển kinh tế xã hội, đề ra được những giải pháp  đánh dấu đưa nước nhà hoà chung vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của cả nước. Với tầm quan trọng của công tác  giáo dục lý luận  chính trị cho cán bộ Đảng viên, em mạnh dạn chọn đề tài “giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ Đảng viên cơ sở ở thị xã Ninh Bình trong thời kỳ mới” với mong muốn trau dồi kiến thức cho bản thân. 
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
2. 1. Mục đích:
Trên cơ sở nghiên cứu về mặt lý luân và thực tiễn công tác giáo dục lý luận  chính trị từ yêu cầu nâng cao tư duy lý luận để đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận  chính trị nhằm hình thành tư duy lý luận cho cán bộ  Đảng viên cơ sở Ninh Bình trong thời kỳ hiện nay. 
2. 2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài:
Để thực hiện được nhiệm vụ trên đề tài phải giải quyết được vấn đề sau:
Làm rõ về một số vấn đề cơ bản về giáo dục lý luận  chính trị và vai trò của nó trong việc hình thành tư duy lý luận cho đội ngũ  cán bộ Đảng viên cơ sở Ninh Bình hiện nay.  Khảo sát thực trạng, hiệu quả công tác giáo dục lý luận  chính trị  xuất phát từ yêu cầu hình thành tư duy lý luận cho đội ngũ  cán bộ Đảng viên cơ sở Ninh Bình hiện nay. 
3. Phương pháp và phạm vi nghiên cứu:
3. 1. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng một số phương pháp cụ thể:
Một số phương pháp CNDVBC Lịch sử
Phương pháp phân tích
Phương pháp logic lịch sử
Phương pháp thiết kế, so sánh, tra cứu tài liệu
Phương pháp quan sát xã hội
Phương pháp sử dụng kiến thức liên ngành chính trị, lịch sử, triết học
3. 2. Phạm vi nghiên cứu:
Do thời gian và điều kiện chưa cho phép đề tài chỉ trong tìm hiểu quan sát thực trạng hiệu quả giáo dục lý luận  chính trị và thực trạng tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ Đảng viên cơ sở ở Ninh Bình hiện nay. 
4. Kết cấu đề tài:
Ngoài phần mục đích, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài còn có 3 chương với 19 mục.


Nội dung
Chương I: Một số lý luận chung về hiệu quả giáo dục lý luận chính trị với việc hình thành tư duy lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên cơ sở ở tỉnh Ninh Bình hiện nay

1. 1. Hiệu quả giáo dục chính trị – khái niệm và tiêu chí
1.1.1. Khái niệm hiệu quả giáo dục lý luận  chính trị:
Lý luận là một hệ thống tri thức khái quát tạo ra một quan niệm hoàn chỉnh về các qui luật và mối liên hệ cơ bản về hiện thực lý luận gắn bó một cách biện chứng với thực tiễn là cơ sở và là tiên đề của nhau, trong đó thực tiễn là thước đo chân lý của lý luận.
Theo từ điển từ và ngữ Hán Việt do giáo sư Nguyễn Lân biên soạn:”Giáo dục là một quá trình hoạt động có ý thức,có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức nhằm bồi dưỡng cho người ta có những phẩm chất đạo đức và những cần thiết để người ta có khả năng tham gia mọi mặt của đời sông xã hội “.
Giáo dục lý luận  chính trị là một công tác quan trọng trong công tác tư tưởng của Đảng. Đó là việc truyền bán những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng, cơ sở của phương pháp luận của nhân dân cho cán bộ, Đảng viên  và giai cấp nông dân. Đồng thời nó tác động vào đối tượng của giáo dục bằng cách trình bày, giải thích một cách khoa học những khái niệm, những qui luật, những quan điểm nhằm làm cho cán bộ, Đảng viên và nhân dân nhất thiết đúng đắn của nguyên lý chủ nghĩa Mác – Lênin, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, nhất trí cao với đạo luật, qui định của Đảng, nâng cao phẩm chất cách mạng và năng lực hoạt động thực tiễn của họ, hướng dẫn họ vận dung những tri thức lý luận vào thực tiễn cuộc sống. Công tác giáo dục lý luận  chính trị là hoạt động có chủ định của Đảng cộng sản nhằm xác lập thế giới quan khoa học trên cơ sở hệ tư tưởng, lập trường của giai cấp công nhân và của chủ nghĩa Mác – Lênin. Khi nói đến hiệu quả chúng ta thường đề cập đến 3 vấn đề : Là sự so sánh kết quả đạt được và mục đích đặt ra. Là sự so sáng giữa kết quả có trước và kết quả sẽ có sau khi tiến hành một hoạt động. Và sự so sánh kết quả đạt được và chi phí về nhân lực, vật lực, tài lực để dạy được kết quả đó.
Vậy hiệu quả của giáo dục lý luận chính trị là tương quan giữa kết quả đạt được với mục đích của giáo dục lý luận chính trị được đạt ra và vốn chi phi để đạt được kết quả đó trong một điều kiện xã hội nhất định.
1.1.2. Tiêu chí đánh giá hiệu quả giáo dục lý luận chính trị 
- Phải có trình độ năng lực phương pháp tư duy lý luận của cán bộ Đảng viên và nhân dân. Muốn phát triển chủ nghĩa Mác, muốn hoàn thiện tư tưởng Hồ Chí Minh và muốn vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh vào chủ nghĩa xã hội đúng đắn thì đòi hỏi mỗi cán bộ Đảng viên phảI có trình độ năng lực tư duy lý luận.
- Có khả năng vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh điều kiện của Đảng vào thực tiễn xã hội
- Đội ngũ cán bộ Đảng viên phải có hứng thú đối với nội dung giáo dục lý luận chính trị.
- Phải có những khả năng đánh giá đúng và định hướng trước những diễn biến phức tạp của hiện thực xã hội.
- Có ý chí vững vàng trong cuộc sống đấu tranh chống lại ảnh hưởng của hệ tư tưởng tự ràn và các quanh điểm phi khoa học
- Có sự thống nhất giữa lời nói và việc làm giữa quan điểm và hoạt động.
- Có sự mong muốn tham gia tích cực vào hoạt động thực tiễn xây dựng đường lối, cơ sở của Đảng và hiến pháp, pháp luật của nhà nước…
1.2. Tư duy lý luận và con đường hình thành tư duy lý luận:
Tư duy là đặc tính hoạt động của bộ óc con người là một trong những đặc điểm cơ bản phân biệt con người với động vật. Do đó, nó là một hiện tượng xã hội gắn  liền với sự vận động,  phát triển lịch sử phát triển của loài người…Tư duy gắn liền với ngôn ngữ, tư duy phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giả đến phức tạp. Người ta có thể phân tích tư duy theo nhiều bình diện, nhiều cấp độ. Tư duy lý luận là trình độ cao của tư duy, tư duy lý luận dựa trên các phương tiện là những khái niệm, phạm trù và qui luật
Vậy con đường hình thành tư duy lý luận đó là:
Tư duy lý luận là tư duy khoa học, là trình độ cao của ý thức con người. Tư duy lý luận là kết quả sự kết hợp biện chứng giữa hai quá trình nghiên cứu hoạt động nghiêm túc và quá trình tự dèn luyện trong quá trình thực tiễn một cách kiên trì “Chủ thể công tác tư tưởng nhất thiết phải không ngừng trau dồi tư duy lý luận chính trị” bởi không có tư duy lý luận thì khó mà thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ công tác chính trị ( quá trình học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh…).
Người làm công tác chính trị hiện nay nhất thiết phải nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh phải nắm vững lịch sử Đảng và lịch sử Cách mạng chủ nghĩa. Nắm vững cương lĩnh, đường lối cách mạng của Đảng ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và có tri thức cần thiết về lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Nhưng không có những vốn kiến thức đó thì phải có văn hoá chung khá phong phú, phải am hiểu nhất định các lĩnh vực lý luận khoa học khác. Đặc biệt phải có những tri thức thực tiễn cần thiết.
Chủ nghĩa Mác – Lênin, là một khoa học lý luận đó dựa trên trên một cấu trúc hoàn chỉnh, vững chắc. Một bộ phận trên một cấu trúc hoàn chỉnh vững chắc. Một bộ môn  hợp thành cấu trúc lại có một hệ thống kinh nghiệm phạm trù, qui luật nhất định.Tư duy lý luận nhất thiết phải nắm lấy các phương tiện lôgic, tức là hệ thông kinh nghiệm, phạm trù, qui luật suy nghĩ. Cần chú y rằng các khái niệm trong khoa học và trong cuộc sống đời thường phải luôn luôn trùng nhau. Đặc biệt cần chú ý trong khoa học xã hội do sự khác nhau về hệ tư tưởng cho nên nội hàm và ngoại diện của cùng một thuật ngữ có khi khác, thậm chí đối lập nhau. Khi tư duy lý luận tồn tại bắt buộc phải ý thức rõ nội hàm và ngoại diện của thuật ngữ, khái niệm đó, đồng nhất phải ý thức được những quan niệm khác trong thuật ngữ do bị chi phối bởi ý  thức của hệ. Như chúng ta đã biết quan niệm về dân chủ, nhân quyên giữa nước ta và phương tây là khác nhau. Chỉ có được những kết luận đúng đắn với những điều kiện và có những điều kiện chính xác và phương pháp suy luận biện chứng duy vật.
Phương pháp rèn luyện tư duy lý luận chủ yếu là gắn lý luận với thực tiễn. Mặt khác, lấy thực tiễn, hệ quả và kinh nghiệm thực tiễn làm tiêu chuẩn để kiểm nghiệm lý luận, phát triển và hoàn thiện tư duy.
Trong học tập và ren luyện tư duy lý luận cần phải đặc biệt chú ý khắc phục thói tự biện, khái niệm chỉ quanh quẩn tới lui trong các thuật ngữ khái niệm quen thuộc, xa rời cuộc sống sinh động. Không phải ngẫu nhiên  mà xuất hiện khuynh hướng nhân danh đời mới chống giáo điều bảo thủ ( đối với chủ nghĩa Mác - Lênin), nhưng thực chất là sao chép từ sách vở.
Quá trình rèn luyện trong thực tiễn là một biện pháp cơ bản trong hoạt động lý luận nói chung và  cho rèn  luyện tư duy lý luận nói riêng. Bởi vì xét cho cùng lý luận tư tưởng thực tiễn mà kết quả nên tổng hợp kết quả thực tiễn là biện pháp có hướng chống cả hai khuynh hướng cơ hội, xét lại trong giáo điều, bảo thủ trong tư duy lý luận. Do đó tổng kết thực tiễn là con đường cơ bản để phát triển tư duy lý luận sáng tạo kinh nghiệm cách mạng chủ nghĩa đã chỉ ra rằng, lúc nào chúng ta độc lập tự chủ và sáng tạo tư duy lý luận, lấy thực tiễn đất nước làm xuất phát điểm để hoạch định đường lối, cuộc sống thì chúng ta danh được thuận lợi, lúc nào chúng tao cũng sao chép một cách máy móc kinh nghiệm của nước ngoài thì cách mạng nếu như khó khăn tổn thất.
Tóm lại con đường hình thành tư duy lý luận nói chung và ở mỗi cán bộ Đảng viên nói riêng nhất thiết phải trải qua hai quá trình: Quá trình học tập chủ nghĩa  Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững hệ thống khái niệm, phạm trù khoa học lý luận, tích luỹ cho được hệ thống tri thức nhất định về tự  nhiên xã hội và tư duy… mặt khác là quá trình rèn luyện trong thực tiễn… rèn luyện lập trường, phương pháp và nhân cách tiếp cận, xem xét nghiên cứu những vấn đề do cuộc sống đạt ra, qua thực tiễn và qua tổng kết thực tiễn không ngưng được nâng cao khả năng  tư duy lý luận,tư duy lý luận phải thường xuyên mài sắc, bổ xung, phát triển không ngừng, đó là công việc thường xuyên của người làm công tác tư tưởng.
1.3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận đạo đức với việc hình thành tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ đảng viên cơ sở hiện nay
- Cán bộ là khái niệm chỉ những người có chức vụ, và cương vị nòng cốt trong một tỏ chức, có tác động ảnh hưởng đến  hoạt động của tổ chức  và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy quản lý, điều hành, góp phần định hướng hoạt động tổ chức.
- Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam là người chiến sĩ  cách  mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đạt lợi ích của tổ Quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích của cá nhân; chấp hành nghiêm cương lĩnh chính trị, điều lệ Đảng, các nhiệm vụ của Đảng và pháp luật của nhà nước, có lao đông không có bóc lột, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ tổ chức; kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng.
1.3.1. Vai trò của việc nâng cao hiệu quả giáo dục lý tưởng chính trị với việc hình thành tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ -  Đảng viên ở cơ sở hiện nay
Vai trò của cán bộ - Đảng viên thể hiện qua bốn mối quan hệ:
Một là đối với  đường lối, chính sách, hai là với bộ máy (các cơ quan, tổ chức lãnh đạo, quản lý ); ba là với công việc; bốn là với giai cấp.
Chỉ khi nào hoàn thành  được sứ mạng do mối quan hệ đó đòi hỏi người cán bộ - Đảng viên mới thực hiện đúng vai trò của mình.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: “Cán bộ là người đem chính sách của Đảng, chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành và đem tình hình của nhân dân báo cho Đảng, chính phủ hiểu rõ để đặt ra chính sách cho đúng” cán bộ - Đảng viên là “ cầu nối” giữa Đảng chính phủ với giai cấp, nhưng không phải là  “vật mang” là “dây dân”,  là sự chuyển tải cơ học mà họ chính là những người đủ tư chất, tài năng đạo đức để làm việc đó. Bởi lẽ, để đem chủ chính sách của Đảng và chính phủ giải thích cho nhân dân được rõ và thi hành đòi hỏi người cán bộ - Đảng viên phải có trình độ, trí tuệ nhất định. Nếu không người cán bộ Đảng viên sẽ không quán triệt hết, thậm chí còn lam sai lệch tính chất, nội dung của chính sách thì thật là nguy hiểm.Ngoài điều kiện có trình độ nhất định, người  cán bộ Đảng viên phảI có một bản lĩnh chính trị, một phẩm chất đạo đức cách mạng, giải thích được chủ trương chính sách của Đảng và chính phủ là một việc khó, nhưng khó khăn va phức tạp hơn nhiều đó là là năm rõ được tâm tư, nguyện vọng chính đáng của giai cấp, cung như phản ánh  đúng thực chất của tình hình để làm căn cứ cho việc hoạch định chính sách. Công việc này đòi hỏi  người cán bộ phải có trình độ tổng kết thực tiễn, khái quát để nâng lên thành lý luận. Đây là công việc không đơn giản, nó đòi hỏi sự thống nhất của bản thân người cán bộ Đảng viên với tư cách vừa là một nhà khoa học vừa là một người chiến sỹ cách mạng nhiệt thành.
Trong bất kỳ một giai đoạn nào của cách mạng, cán bộ Đảng viên luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng, đảm bảo vai trò của Đảng đối với cách mạng vô sản. Ngày nay khi dân tộc ta cùng nhân loại bước sang thế kỷ XXI, hội nhập với thế giới, thì cán bộ Đảng viên nước ta sẽ như một “tổ lái” có nhiệm vụ “lái cỗ xe” với hơn 80 triệu dân bước vào thế kỷ mới, hội nhập với thế giới hiện đại đầy biến động do đó vai trò của cán bộ Đảng viên là đặc biệt quan trọng.
1.3.2. Vai trò của hoạt động giáo dục lý luận chính trị với việc hình thành tư duy chính trị cho cán bộ Đảng viên cơ sở
Bàn về mục đích giáo dục và học tập lý luận, chính trị, chủ tịch HCM đã chỉ rõ “Học để sửa chữa tư tưởng. Hăng hái  theo cách mạng điều đó rất hay. Những tư tưởng chưa thật đúng là những tư tưởng cách mạng, vì thế cần học tập để sửa chữa cho đúng thì hành động mới khỏi bị sai lạc và mới làm tròn nhiệm vụ của cách mạng được”.
Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng: “có đạo đức cách mạng thì mới hi sinh tận tuỵ với cách mạng, mới lãnh đạo được giai cấp cách mạng đến thắng lợi hoàn toàn”.
Học để tin tưởng vào:  Đoàn thể tin tưởng
Tin tưởng vào nhân dân
Tin tưởng vào tương lai của dân tộc
Tin tưởng vào tương lai của cách mạng
Có tin tưởng thì lúc ra thực hành mới vững chắc hăng hái, lúc gặp khó khăn mới kiên quyết hy sinh.
Học để hành : Học với hành phải đi đôi.  Học mà không hành thì vô ích. Học mà không hành thì không trôi chảy. Công tác giáo dục  chính trị là một bộ phận của công tác tư tương. Hiên nay, công tác tư tưởng  có một vai trò hết sức quan trọng. Như chúng ta đã biết trên thế giới hiện nay tồn tại hai tư tưởng: Vô sản và tư sản không có hệ tư tưởng chung gian,  nếu ta không làm tốt công tác tư tưởng, giáo dục lý luận chính trị trong giai đoạn hiện nay thì tự chúng ta để cho tư tưởng Tư sản có mảnh đất hoạt động, công tác giáo dục lý luận chính trị luôn đồng hành với sự nghiệp cách mạng của Đảng ta  hơn 73 năm qua. Ngày nay các thế lực thù địch đang tìm mọi cách chống phá các nước XHCN chúng cho rằng sự sụp đổ của Liên Xô đánh dấu chấm hết cho: Việt Nam, Trung Quốc, Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, CuBa đứa con của chủ nghĩa Mác. Cuộc đối đầu trực diện giữa hai bên chủ nghĩa xã hội và CNTB mà chủ yếu là cuộc đối đầu Xô - Mỹ không còn nữa nhưng chiến  tranh tư tưởng không phải lã đã kết thúc ngày càng quyết liệt nhưng âm thâm bằng chiến lược “diễn biến hoà bình”. Các thế lực thù địch coi Việt Nam là một trọng điểm đẻ chống phá, nhưng chúng  nghĩ rằng bước sang thế kỷ XXI,  Việt Nam, Trung Quốc không những không bị tiêu diệt mà ngày càng mạnh mẽ và đạt được những thành tuỵ hết sức to lớn hơn lúc nào hết công tác giáo dục lý luận chính trị phải được đạt lên hàng đầu trong toàn bộ hệ thống chính trị của Đảng. Tầm quan trong đó bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác - Lênin đối với quá trình phát triển của chủ nghĩa xã hội, hệ tư tưởng toàn dân trong chế độ XHCN. Vấn đề nâng cao trình độ Mác - Lênin cho cán bộ,  Đảng viên là một vấn đề thường xuyên của Đảng, bởi những vấn đề của chủ nghĩa Mác - Lênin soi đường chỉ lối cho Đảng và công tác lãnh đạo cách mạng. Không có lý luận thì không thể có  phong trào cách mạng, cho nên công tác giao dục là một vấn đề quan trọng bậc nhất của Đảng chủ nghĩa Mác – Lênin. Hiện nay toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang tập chung học tập tư tưởng HCM. Mỗi cán bộ, Đảng viên phải thấy rõ vai trò của mình đối với học tập và nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tương Hồ Chí Minh chính là một vấn đề  thuộc về chính Đảng, một vấn đề có quan hệ đến sinh mạng của Đảng.
Đối với Đảng, nhà nước ta coi giáo dục lý luận chính trị là nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết khẳng định giáo dục lý luận chính trị là một bộ phận quan trọng của công tác tư tưởng của Đảng là truyền bá nhưng nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng cho cán bộ Đảng viên và giai cấp nhân dân. Đó là quá trình tạc động đối tượng bằng giáo dục bằng cách trình bày, giải thích một cách khoa học những khái niệm những định luật, những quan điểm… nhằm làm cho cán bộ, Đảng viên trong giai cấp nhân dân nhận thức đúng đắn những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, kiên định mục tiêu lý tưởng, đường lối, gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhất trí cao đường lối quan điểm của Đảng, nâng cao phẩm chất cách mạng và năng lực hoạt động thực tiễn hướng dẫn họ vận dụng những hiểu biết ấy vào cuộc sống giáo dục lý luận chính trị của Đảng viên không phải là một công việc trừu tượng, càng không phải là một thuyết giáo xa xôi với cuộc sống mà là những yêu cầu nhiệm vụ cần thiết nhất của cách mạng. Vì vậy mà giáo dục lý luận chính trị không được lý luận chính trị thành công thức vững chắc, trừu tượng mà phải trình bày một cách khoa học, dễ hiểu sinh động và có sức thuyết phục cao với những quan điểm của Đảng,  củng cố niềm tin ý chí cách mạng để thực hiện thuận lợi đường lối chính sách của Đảng.
Lý luận chính trị là một vấn đề quan trọng của toàn Đảng, do vậy việc truyền đạt  tư tưởng chính trị  thuộc về các cơ quan ban ngành có chức năng, các cơ quan giáo dục lý luận chính trị.  Đồng thời các lực lượng khác trong xã hội là các cán bộ Đảng viên, quản lý ở các giai cấp, các ngành phải quan tâm đến  học tập nhằm nâng cao trình độ lý luận vận dụng lý luận vào thực tiễn, tổng kết thực tiễn để rút ra những vấn đề thực lý luận, đó là những cấp độ khác trong hoạt động tư duy và hoạt động của con người.
Theo tiến trình V.I Lênin, chúng ta hiểu rằng thái độ không quan tâm đến lý luận, coi thường lý luận nhất điểm sẽ dẫn đến sai lạc, dẫn đến lẫn lộn và sai lầm của người quản lý, lãnh đạo. Mọi sự hạn chế về lý luận đều có thể làm cho con ngươi dừng lại ở chủ nghĩa kinh nghiệm, dễ đi đến những kinh nghiệm không đúng đắn hoặc vội vàng thậm chí có thể rơi vào cạm bẫy của những thói đời dối trá của bọn cơ hội.
Vì vậy, mục đích của công tác giáo dục lý luận chính trị là xây dựng thế giới quan khoa học, phương pháp luận đúng đắn, những sản phẩm cộng sản cho cán bộ Đảng  viên của giai cấp nông dân, giúp họ khắc họ khắc phục những tư tưởng lạc hậu, những tàn tích của hệ tư tưởng cũ, nâng cao trình độc chính trị, nhiệt tình cách mạng, tính tự giác, tích lực trong quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.


Chương II: Thực trạng hiệu quả giáo dục lý luận chính trị với việc hình thành tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ, đảng viên cơ sở ở tỉnh Ninh Bình hiện nay

2.1. Một số đặc điểm về tỉnh Ninh Bình;
Tỉnh Ninh Bình nằm ở cực nam của đồng bằng bắc bộ với diện tích tự nhiên là 1420,7 km2 trong do đồi núi và nửa đồi núi chiếm 70%, đất sử dụng nông nghiệp là 67,125 ha, đất sử dụng vào lâm nghiệp là 19,033 ha.
Ninh Bình là tỉnh rất thuận tiện về giao thông, cả về đường bộ lẫn đường thuỷ. Với quốc lộ 1A, quốc lộ 10 và đường sắt xuyên Việt chạy qua, là đầu mới giao thông Bắc – Nam giao thông đường thuỷ có sông Đáy có thuyền ra vào biển Đông. Sông Vân năm vắt ngang qua trung tâm thị xã tạo cảnh quan trên bến dưới thuyền. Nhờ có đường giao thông thuỷ bộ thuận lợi, Ninh Bình trở thành đầu mối giao thông liên lạc với các tỉnh Nam Đinh, Hà Nội, Thanh Hoá. Đây thực sự là tiềm năng quan trọng nhất để phát triển  kinh tế – xã hội của tỉnh.
Qua nhiều lần biến đổi, đến nay Ninh Bình có 6 huyện và thị xã với 125 xã, 11 phường, 6 thị trấn.
Toàn tỉnh có 90 vạn dân, hầu hết là người kinh, có khoảng 2 vạn đồng bào Mường sống tập chung ở Nho Quan và thị xã Tam Điệp. Nhân dân Ninh Bình sống chủ yếu bằng nghề nông chiêm khoảng 80% nhân khẩu. Những năm gần đây kinh tế thương mại, du lịch – dịch vụ phát triển mạnh và được khẳng định là một thế mạnh đầy tiềm năng. Ngành du lịch – dịch vụ phát triển đã thu hút đông đảo du khách trong nước và nước ngoài đến Ninh Bình với các danh lam thắng cảnh: Cố đô Hoa Lư, rừng quốc gia Cúc Phương, Tam Cốc – Bích Động…đã làm biến đổi sâu sắc đời sống văn hoá, sinh hoạt của người dân Ninh Bình. ở Ninh Bình có hai tôn giáo chính là công giáo và phật giáo tín ngưỡng dân gian và lễ hội cũng là sinh hoạt thống nhất lâu đời của nhân dân cùng  tồn tại trong quá trình phát triển lịch sử xã hội trên đất nước,  Ninh Bình. Song song với phát triển kinh tế, sự nghiệp vắn hoá - giáo dục… của tỉnh đã có bước đi vững chắc. Số học sinh ngày càng tăng. Hệ thống thông tin, truyền tin phát triển mạnh. Mạng lưới y tế, thể dục thể thao, chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được Đảng bộ chú trong. Lao động và đầu tư xây dựng cuộc sống vật chất phát triển ngày càng tốt hơn.
2.2. Tình hình công tác giáo dục lý luận chính trị với việc hình thành tu duy lý luận chính trị cán bộ Đảng viên ở Ninh Bình hiên nay:
Để cán bộ, Đảng viên được nâng cao trình độ, năng lực tư duy lý luận thì Đảng và nhà nước cần có những chủ trương chính sách đồng bộ, thiết thực trong công tác giáo dục nói chung và công tác giáo dục lý luận chính trị nói riêng. Trong thời gian qua  Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, quyết định quan trọng về công tác giáo dục lý luận chính trị trong Đảng. Nghị quyết số 210 của ban bí thư khoá III ngay 29/12/1970 “Về công tác giáo dục lý luận chính trị và tư tưởng đối với cán bộ, Đảng viên” là nghị quyết đầu tiên đề cập một cách toàn diện, sâu sắc về công tác giáo dục lý luận chính trị. Nghị quyết đề ra những nhiệm vụ biên soạn và tiến hành giáo dục cán bộ Đảng viên theo 4 cấp chương trình cơ bản: cơ sở, sơ cấp, trung cấp và cao cấp; tổ chức hệ thống trong Đảng ( trường Nguyễn ái Quốc trung ương các trường Đảng trung cấp theo ngành, các trường lớp tại chức ) đề ra nhiệm vụ quy hoạch cán bộ với nội dung quan trọng và tiêu chuẩn hoá trình độ lý luận của mỗi cán bộ ở mỗi chức vụ. Tiếp theo đó ngày 25/12/1974 Ban chấp hành Trung Ương Đảng khoá III có nghị quyết về công tác xây dựng Đảng,nghị quyết này đề ra mục tiêu đến năm 1980 cán bộ Đảng viên học chương trình giáo dục lý luận chính trị theo qui định. Sau đó hầu như các kỳ đại hội Đảng ta đều đề cập đến công tác giáo dục chính trị, công tác trong Đảng. Đại hội VIII chỉ rõ: “Mọi cán bộ, Đảng viên trước hết là cán bộ lao đông chủ chốt phải có kế hoạch thường xuyên học tập,  nâng cao trình độ ly luận chính trị, kiến thức và năng lực  hoạt động Đảng thực tiễn.
Đại hội IX khẳng định thêm : từ nay đến năm 2005 phần cán bộ lao đọng chủ chốt từ cấp huyện trở lên học xong chương trình cao cấp về lý luận chính trị và có trình độ đại học về một chuyên ngành cụ thể nhất định.
Thực hiện nhưng văn bản trên của Đảng, những năm qua phong trào phong trào học tập ly luận chính trị của Đảng ngày càng phát triển và thu được nhiều hiệu quả tích cực, góp phần nâng cao trình độ lý luận chính trị của cán bộ Đảng viên, phát triển cùng sự nhận thức trong Đảng, ổn định tư tưởng chính trị trong mọi cấp,mọi ngành,mọi bộ phận.
Cùng với các địa phương trong cả nước thực hiện chủ trương kế hoạch đào tạo lý luận chính trị cho cán bộ Đảng viên, nhất là cán bộ Đảng viên cơ sở.Ninh Bình đã đạt được những thành tuỵ nhất định.
2.2.1. Thành tựu và nguyên nhân
Trong những năm qua, các trọng tâm bồi dưỡng tỉnh đã đào tạo được nhiều lớp lý luận chính trị cho hàng vạn lượt cán bộ cơ sở. Ban tuyên giáo các cấp,  các trường chính trị, các phương tiện thông tin đạI chúng, cơ quan văn hoá thông ti các cấp trong tỉnh…. đã trang bị cho đội ngũ cán bộ cơ sở những tri thức vật lý về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng HCM, đường lối chính sách cua Đảng, những tri thức về xây dựng phát triển kinh tế xã hội.
Trường chính trị của tỉnh là công cụ sắc ben quan trọng của các cấp uỷ Đảng trong việc triển khai công tác giáo dục lý luân  chính trị.  Với chức năng nhiệm vụ chủ yếu là đào tạo cán bộ Đảng viên, cơ quan và đoàn thể nhân dân, bồi dưỡng ngắn về lý luân  chính trị, công tác Đảng, quản lý công tác vận động quá trình trong trường chính trị tỉnh phối hợp cùng cơ quan tổ chức chính quyền tỉnh, sở tàI chính vật giá đã sớm chỉ đạo và xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ năm 2002 để báo cáo thường vụ tỉnh uỷ và khẩn trương triển khai thực hiện sau khi được duyệt. Đến nay đã tiến hành khai giảng được hai lớp trung cấp chính trị cho 207 học viên tại thị xã Tam Điệp và thị xã Ninh Bình; duy chì quản lý 1 lớp cao cấp và một lớp cử nhân chính trị gồm 223 học viên tại tỉnh và 5 lớp trung cấp chính trị tại các huyện, thị xã làm thủ tục thông báo, chiêu sinh 10 đồng chí đI học cử nhân chính trị, một đồng chí đi học cao cấp chính trị. Số lớp đã mở,sở huyện đã cử đi học và được phát triển hơn so với năm 2000 và những năm trước. Từng năm đã cử đi 51 đồng chí đi đào tạo lý luận tại các trường trung ương, trong đó học cử nhân chính trị là 43 (có 23 đồng chí học tạI chức tạI Hà Nội ) cao cấp chính trị 8 đòng chí. Ngoài ra trường còn tiến hành  khai lớp cao cấp chính trị tại chức gồm 112 đồng chí, mở 62 lớp đào tạo bồi dưỡng cho 5517 hội viên trong đó có 7 lớp trung cấp chính trị.
Đồng thời nhà trường còn phối hợp với các trung tâm chính trị cấp huyện mở được các lớp bồi dưỡng lý luận chính trị ngắn hạn cho hàng vạn  lượt học viên là cán bộ cơ sở. Đội ngũ này sau khi được học chương trình lý luẩn trở về công tác tạI cơ sở cơ bản công tác tốt.
Trong những năm qua hoạt động của ban tuyên giáo tỉnh uỷ Ninh Bình được tiếp tục triển khai có hiệu quả. Ban tuyên giáo đã tiến hành tham mưu chỉ đạo kiểm tra rát rao công tác giáo dục lý luân  chính trị, chủ động đưa chủ trương,  đạo luật, chính trị, chủ động đưa chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng cho cán bộ Đảng viên. Ban tuyên giáo đã chỉ đạo, phối hợp với các cơ quan  truyền thông để truyền tin kịp thời, có ảnh hưởng đáp ứng đủ yêu cầu thông tin ngày càng cao của cán bộ Đảng viên, tích cực chống lại âm mưu, hành động “diễn biến hào bình của các thế lực thù địch, kiên quyết chống lại các tệ nạn xã hội trên địa bản tỉnh. Đồng thời phối hợp với các cấp các ngành thực hiện một số phong trào lớn: Đền ơn đáp nghĩa, xáo đói giảm nghèo… phấn đấu tỉnh Ninh Bình giàu đẹp, phát triển.
Nhìn chung công tác giáo dục chính trị đối với cán bộ Đảng viên cơ sở trong tỉnh đã chuyển biến một cách mạnh mẽ trong nhận thức tổng quát của quá trình chỉ đạo các cấp uỷ Đảng,  các ngành các cấp từ tỉnh đến cơ sở tạo ra sự nhất quán trong chỉ đạo nội dung và phương pháp thực hiện. Chính vì vậy cán bộ Đảng viên phấn khởi tiếp nhận, và đồng tình ủng hộ chủ trương, đường lối của Đảng, thừa nhận và đánh giá cao các thành tựu của công cuộc đổi mới trên các mặt đời sống, kinh tế, chính trị, xã hội. Đại đa số cán bộ Đảng viên hăng hái thực hiên các chủ trương chính sách của nhà nước và địa phương, vững tin vào con đường đi lên chủ  nghĩa xã hội và sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, để xây dựng một đất nước văn minh giau đẹp thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Đến nay toàn tỉnh có 46,915 Đảng viên ( tăng 239 Đảng viên co với năm 2003 trong đó Đảng viên là người dân tộc 4,85 bằng 1,04% Đảng viên có đạo;1052 bằng 2,25% ). Tổng số cán bộ lao động chủ chốt các cấp tỉnh đến cơ sở là 832 đồng chí, trong số cán bộ diện ban thường vụ, bí thư, phó bí thư, chủ tịch, hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân huyện, thị xã:
Trình độ chuyên môn        Trình độ lý luận
+ Thạc sỹ: 5 đồng chí bằng 4,7%                + Cử nhân: 58 đồng chí bằng 54,72%
+ Đại học: 99 đồng chí bằng 93,4 %       + Cao cấp: 26 đồng chí bằng 24,53%
+ Cao đẳng: 2 đồng chí bằng 1,9 %       + Trung cấp:22 đồng chí bằng 20,75%

Từ năm 2001 đến nay đã cử được 2144 lượt cán bộ đi đào tạo các lớp đại học, trên đại học,  trung cấp về chuyên môn. 1868 lượt cán bộ đi đào tạo củ nhân, cao cấp trung cấp lý luận chính tri và 12024 lượt cán bộ đi bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước, công tác xây dựng Đảng, công tác vận động giai cấp và kiến thức quốc phòng.
Để chủ  động thực hiện được kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,Trung Ương đã quan tâm sắp xếp lại hệ thống các cơ sở đào tạo thuộc tỉnh quản lý. Đầu tư đội ngũ giáo viên, phát triển cơ sở vật chất và kinh phí đào tạo bồi dưỡng đáp ứng yêu cầu đặc thù bồi dưỡng cán bộ trước mắt và lâu dài. Sáu tháng đầu năm 2004 toàn tỉnh đã mở được 11 lớp bồi dưỡng cho 1300 đối tượng cảm tình Đảng, kết nạp được 839 Đảng viên mới, trong đó có 494 là nữ chiếm 53%, 555  là đoàn viên thanh niên chiếm 65%, 10 Đảng viên mới là người dân tộc thiểu số và 7 Đảng viên là người theo đạo thiên chúa. Về  trình độ có 738 đồng chí mới tốt nghiệp Trung học phổ thông chiếm 88%; 293 đồng chí mới có trình độ cao đẳng, đại học chiếm 35%. Đã xáo được3/5 Đảng viên xan trăng Đảng viên.  Nâng cao chất lượng công tác giáo dục lý luận chính trị với việc hình thành năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ cơ sở ở Ninh Bình hiện nay là một việc làm hết sức quan trọng và cần thiết. Bởi chỉ có tư duy lý luận và tư duy khoa học, thì mới hạn chế, khắc phục được lối tư duy kinh nghiệm, theo lối mòn.
Bước vào thời kỳ đổi mới  và những năm gần đây, tầm nhìn của đội ngũ cán bộ nhất là các đồng chí lãnh đạo ở cấp tỉnh, đã mở rộng và sâu hơn. Tầm nhìn ấy, trước hết là có sự đột phá đổi mới tư duy do Đảng phát động, đồng thời do trình độ học vấn được nâng cao hơn và có sự thông tin nhiều chiều,  không chỉ là thông tin gián tiếp mà cả thông tin trực tiếp từ thực tế ở nhiều nơi trong và  ngoài nước, đặc biệt là đời sống thực tiễn đơn vị, địa phương trong tỉnh.
Có thể khẳng định trong thời gian qua thông qua những gì đã học, những lớp bồi dưỡng lý luận chính trị  đã trang bị cho cán bộ Đảng viên cơ sở những tri thức quý báu, rất cần thiết, cần thiết cho công tác. Đồng  nhất quá trình qua những năm chương trình giáo dục lý luận chính trị này đội ngũ cán bộ cơ sở phần nào khắc phục được lối tư duy kinh nghiệm của hình thành năng lực tư duy lý luận. Đó là năng lực tư duy tổng hợp, kết quả, phương pháp tư duy khoa học, cấp trừu tượng và tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Năng lực xử lý tình huống được nêu lên.Có được các thành tuỵ cơ bản  trên đây là nhờ:
Các cấp uỷ cùng các ban ngành đoàn thể trong tỉnh luôn luôn coi trọng giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ Đảng viên, bên cạnh đó là: Sự tu dưỡng, phấn đấu học tập, rèn luyện của bản thân mỗi cán bộ, Đảng viên và sự ủng hộ nhiệt thành của giai cấp nhân dân.
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân
- Một số các cấp Đảng uỷ vẫn nhân thức đầy đủ tâm quan trọng của công tác giáo dục chính trị cho cán bộ Đảng viên, một số nơI có quan tâm đến nhưng chỉ mang tính tình thế, chiếu lệ.
- Công tác giáo dục chính trị tư tưởng chưa kiên quyết phê phán và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội thực dụng, những quan điểm mơ hồ sai trái.
- Trong đội ngũ cán bộ cơ sở  một bộ phận vẫn còn nặng nề lối tư duy mang tính kinh nghiệm vì vậy khi giải quyết công việc còn mang tính chủ quan, duy y chí.
  Cũng phải thấy một số mặt trên đây là do :
+ ở cơ sơ cơ cấu kinh tế  vẫn còn mang nặng tính tự cấp tự  túc chủ yếu vẫn là cây lúa nước.
+ Do tan dư phong kiến,  chế độ gia trưởng nghìn năm còn lưu lại.
+ Do ảnh hưởng cách nghĩ,  cách làm của mấy chục năm ở thời bao cấp.Hơn nữa
+ Do điều kiên địa lý chủ yếu sinh ra và phát triển nên và lớn lên ở  vùng nông nghiệp kinh tế còn kém phát  triển, ít có điều kiện tiếp thu giao lưu  với các vùng miên khác.
+  Do những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường.
* Nguyên nhân chủ quan:
+  Do ảnh hưởng của tàn dư của chế độ phong kiến, vì vậy ý thức về tâm lý, tính gia trưởng còn tồn tại.
+  Một bộ phận cán bộ, Đảng viên chưa tâm sự say xưa trong học tập, nghiên cứu lý luận chính trị,  chưa chú trọng đến công tác tổng kết thực tiễn đúc rút hình thành kinh nghiệm quí báu cho bản thân và cho cả tập thể, chưa quan tâm đến vấn đề đội mới tư duy nhất là tư duy lý luận.


Chương III: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả côn tác giáo dục lý luận chính trị nhằm hình thành tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ cơ sở ở Ninh Bình hiện nay

3.1. Thiết lập điều kiện  xã hội kết quả thuận lợi cho việc nâng cao hiệu quả giáo dục chính trị với việc hình thành tư duy lý luận đội ngũ cán bộ Đảng viên  cơ sở ở tỉnh Ninh Bình
Những điều kiện xã hội kết quả đó là môi trường sống, điều kiện kinh tế, chính trị văn hoá, xã hội, tồn tại xã hội nói chung. Thực chất biện pháp nhằm tạo ra môi trường mang tính tư tưởng các để giáo dục tư tưởng bởi vì “ Những con người là sản phẩm của hoàn cảnh thì cần phải tạo ra sản phẩm có tính người” Những điều kiện xã hội kết quả ấy tạo khả năng thuận lợi cho việc tiến hành các công tác giáo dục lý luận chính trị,  tạo điều kiện nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị với việc hình thành tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ Đảng hiện nay.
3.2. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với công tác giáo dục  lý luận chính trị:
Nâng cao trách nhiệm của cấp uỷ Đảng, trước hết là trách nhiệm của đồng chí bí thư cấp uỷ, đồng chí thủ trưởng cơ quan, đơn vị lãnh đạo, chỉ đạo quản lý công tác tư tưởng. Thực hiện chế độ bàn dao định kỳ, đột xuất trong các ngành  trực tiếp hoạt động trên mặt trận tư tưởng văn hoá theo qui chế làm việc. Coi trọng nắm bắt tư tưởng bằng các hình thức phù hợp ( như phát phiếu thăm dò, toạ đàm đối thoại trực tiếp trên cơ sở đó phân tích dự báo diễn biến tư tưởng để có biện pháp sử lý kịp thời các tình huống tư tưởng. Phát triển kiểm tra  các hoạt động tư tưởng văn hoá ơ cơ sở, ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực trong hoạt động kinh doanh văn hoá, kiên quyết sử lý những  vi phạm pháp luật trên lĩnh vực này.
Nêu cao vai trò gương mẫu của cán bộ, Đảng viên là một giải pháp quan trọng trong công tác chính trị tư tưởng. Nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình của Đảng. Các lực lượng làm công tác tuyên truyền chính trị tư tưởng. Đặc biệt là lực lượng có chức năng đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị ngoài việc truyền bá nội dung tri thức chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng HCM, quan điểm, đường lối chính  sách của Đảng cần chú trọng đến việc giáo dục sâu ý thức hệ của phương pháp tư duy lý luận trên nền tảng khoa học Mác – Lênin.
3.3. Nâng cao đội ngũ cán bộ làm công tác giáo dục lý luận chính trị
Đối với đội ngũ giảng viên  lý luận chính trị phải là người có tính Đảng cao là người chiến sỹ trên mặt trân tư tưởng. Lẽ sống của giảng viên là say sưa  trau rồi kinh nghiệm trong thực tiễn để truyền  bá thế giới quan Mác - Lênin và đường lối quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước trong cán bộ Đảng viên nhân dân. Đấu tranh không khoan nhượng với những tư tưởng sai lầm và phản động. Việc bảo vệ, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm của Đảng vào giai cấp vừa là nghĩa vụ, vừa là vinh dự của người giảng viên. Đồng thời thời đòi hỏi người  giảng viên phải có vốn sống, vốn hiểu biết sâu, giỏi một chuyên ngành, biết và làm được nhiều ngành, cần chú ý lựa chọn những cán bộ có khả năng viết, nói, biết đối thoại. Giảng viên lý luận chính trị phải có nhiệm vụ giảng dạy, nghĩa là có phương pháp sư phạm tốt, vì giảng viên dạy lý luận chính trị khô khan đôi khi trở nên cứng nhắc. Do vậy, có phương pháp truyền đạt tốt thì trong khi học tập nghiên cứu (với nội dung, biết tổng kết thực tiễn để bố trí làm công tác tư tưởng) mới tiếp thu dễ dàng hơn.
3.4. Đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục lý luận chính trị trong học tập để hình thành tư duy lý luận
Đối với người học tập cần phải khắc phục thói tư duy kinh nghiệm, tự biện chỉ quanh quẩn trong các thuật ngữ, kinh nghiệm quen thuộc xa rời  sự sống động của chính sách. Chủ nghĩa Mác - Lênin là một khoa học, lý luận đó dựa trên một cấu trúc hoàn chỉnh, vững chắc. Mỗi yếu tố, mỗi bộ phận hợp thành cấu trúc có một hệ thống khai niệm,  phạm trù, qui luật nhất định. Tư duy lý luận nhất thiết phải nhất thiết nắm lấy các phương tiện logic, tức là hệ thống kinh nghiệm, phạm trù, qui luật để suy nghĩ.
Phương pháp rèn luyện tư duy lý luận chủ yếu là gắn lý luận với thực tiễn. Dùng lý luận bao gồm cả cương lĩnh, phương hướng chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước làm căn cứ ban đầu để phân tích thực tiễn. Đồng thời  đến lượt nó thực tiễn  cơ bản là hiệu quả kinh tế – xã hội của hoạt động chung, làm tiêu chuẩn kiểm nghiệm lý luận và hoàn thiện lý luận theo V.I. Lênin, con đường của nhận thức là: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Mở rộng hình thành đối thoại trong hoạt động tuyên truyền giáo dục tăng cường công tác nắm bắt, dự báo tình hình, diễn biến tư tưởng trong xã hội.
3.5. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất – tinh thần cho nhân dân tỉnh Ninh Bình
Hồ Chí Minh Khẳng định: “…Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát khỏi sự bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và một cuộc sống hạnh phúc” ( Hồ Chí Minh toàn tập nhà xuất bản chính  trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 10, trang17).
Ninh Bình đang đẩy mạnh phát triển khoa học kỹ thuật theo hướng công nghiệp  - nông nghiệp – dịch vụ từng bước công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn đẩy mạnh sự phát triển văn hoá - xã hội nâng cao đời sống vật chất tinh thần.
3.6. Nâng cao hiệu quả công tác thông tin, truyền bá công tác giáo dục lý luận chính trị qua các phương tiện thông tin đại chúng,báo, đài, phát thanh, truyền hình tỉnh và đài thanh cơ sở
Giao dục lý luận chính trị phảI toàn diện đảm bảo tính hệ thống bằng những hình thành khác và phương tiện thông tin đạI chúng là một hình thức quan trọng góp phần nâng cao khả năng nhạy bén của người cán bộ Đảng viên.  Qua đó thúc đẩy sự phát triển năng lực tu duy  lý luận trong tình hình mới. Các cấp uỷ của chính quyền gồm có những chủ trương chính  chính sách để khai thác thế mạnh của các đàI phát thanh truyền hình trong tỉnh và cơ sở tăng cường đầu tư đầu tư có hiệu quả cơ sở vật chất và phương tiện kỹ thuật, trang bị tạo điều kiện cho  các đàI  phát thanh truyền hình tăng thời lượng  một cách thích đáng cho việc tuyên truyền giáo dục lý luận chính trị.
3.6.1.Phát huy tính tích cực, hoạt động sáng tạo lý luận chính trị, sự nỗ lực cao của người cán bộ Đảng viên
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một  mẫu hình tiêu biểu nhất của người cách mạng, người cộng sản đã để lại cho chúng ta tấm gương tự học, học bất kỳ lúc nào, học suốt đời, không ngừng rèn luyện nâng cao năng lực, bản lĩnh, phong cách tư duy và  trí tuệ với năng lực tổ chức thực tiễn tuyệt vời. Cần hiểu được điều đó để chúng ta học tập rèn luyện trau dồi lý luận phát triển tư duy, trí tuệ và tư tưởng của mình để phục vụ sự nghiệp cách mạng hiện nay.
“ Học, học nữa, học mãi, học qua thực tiễn, học qua nghề nghiệp bằng sự nỗ lực của mình chắc chắn người cán bộ, Đảng viên  sẽ có điều kiện nâng cao trình độ lý luận chính trị của mình.
3.7. Phát huy các phong trào thi đua tổng kết thực tiễn
Tổ chức tốt phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa trong hệ thống chính trị ( Đảng, chính quyền, mặt trân và các đoàn thể ) tạo không khí trao đổi sôi nổi và liên tục trong các cơ sở. Việc tổ chức các phong trào thi đua này nhằm nâng cao hiệu quả lý luận chính trị  để hình thành năng lực lý luận của cán bộ Đảng viên được tiến hành một cách chủ động, tư đó nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học lý luận chính trị.
Tổng kết thực tiễn rút ra những bài học quí báu  là một biện pháp cơ bản của hoạt động lý luận nói chung và hoạt động và hoạt động tư duy nói riêng. Bởi vì xét cho cùng lý luận  là từ thực tiễn khái quát lên. Tổng kết  thực tiễn là biện pháp hiệu quả chống các khuynh hướng cơ hội xét lại giáo điều,  bảo thủ trong tư  duy lý luận. Chú trọng khâu tổng kết thực tiễn đúc rút ra nhưng bài học thành công quí báu là con đường cơ bản để phát triển tư duy lý luận.
Kết luận
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước bước đầu đã có nhiều thành công. Những thành quả đầu tiên gặp hái được đã khẳng định sự lao động của Đảng là hết sức đúng đắn đóng góp một phần vào thắng lợi đó phải kể đến vai trò của công tác tư tưởng, đặc biệt là  hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị trong thời gian qua. Hiệu quả của công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ Đảng viên trong bối cảnh hiện nay hiện nay là rất quan trọng khi tình hình thế giới có nhiều biến động, các thế lực đang ra sực chống phá sự nghiệp đổi mới của dân tộc ta; chính điều đó chúng ta phải đặt hiệu quả của công tác giáo dục chính trị lên hàng đầu để không nhằm mục đích làm cho cán bộ, Đảng viên tin vào đường lối của Đảng, niềm tin khoa học vào sự tất thắng của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ, dân tộc đã lựa chọn.
Để hình thành tư duy lý luận cho cán bộ cơ sở hiện nay phải đòi hỏi phải trải qua hai bước thử thách: Bước một là tích cực học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững hệ thống phạm trù thuật ngữ, tiếp thu cho được hệ thống tri thức nhất định về tự nhiên, xã hội và tư duy… Bước hai là quá trình rèn luyện trong thực tiễn, rèn luyện phương pháp luận,rèn luyện phong cách, tác phong xem xét, nghiêm cứu những vấn đề cuộc sống đặt ra, tự bồi dưỡng tình cảm cách mạng, qua  thực tiễn tiếp thu những lý tưởng hình thành ngay trong cuộc sống thực tiễn. Qua thực tiễn nghiên cứu vấn đề khảo sát hiệu quả giáo dục lý luận chính trị với việc hình thành tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ hiện nay yêu cầu:
Một là: Hiệu quả công tác giáo dục chính trị phải luôn luôn đứng vững trên nền tảng tư tưởng Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,  kiên định mục tiêu đường lối dân tộc, chủ nghĩa xã hội và sự lãnh đạo của Đảng. Bám sát những quan điểm cơ bản của đường lối chính sách giữ vững niềm tin vào sức mạnh chân lý của hệ tư tưởng cách mạng của khoa học, vào tính đúng đắn của đường lối và sự lãnh đạo của Đảng.
Hai là: Kết hợp hiệu quả công tác giáo dục chính trị với công tác giáo dục văn hoá, khoa học kỹ thuật, nhiệm vụ, bảo đảm cho các mặt cho các mặt giáo dục đó phát triển cân đối.
Ba là: Kết hợp giáo dục một cách có hệ thống những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin với việc giáo dục những vấn đề thời sự, cuộc sống đang đặt ra trong thực tiễn.
ốn là: Kết hợp việc nâng cao những kiến thức lý luận chính trị, kinh tế với việc nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, phát huy tác dụng của việc phê bình và tự phê bình của cán bộ cơ sở.
Năm là: Kết hợp giáo dục chính trị của Đảng với việc giáo dục trong giai cấp nhằm làm sao mọi cán bộ, Đảng viên, giai cấp đều nắm vững lý luận Mác – Lênin, quan điểm đường lối của Đảng.
Sáu là: Yêu cầu của hiệu quả công tác giáo dục chính trị là đặc biệt quan  tâm đến đội ngũ giảng viên cả về bản lĩnh, phẩm chất và năng lực. Đồng thời phải kết hợp  đòi hỏi hiệu quả chất lượng của đội ngũ giảng viên đi đôi với thực hiện chế độ đãi ngộ thảo đáng  phù hợp với  điều kiện chung của cả nước.
Các giải pháp trên cần phải được thực hiện  một cách đồng bộ trong một thể thống nhất bổ xung hỗ trợ cho nhau. Việc thực hiện đồng bộ các giai cấp này chẳng những góp phần qui định vào việc nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận chính trị hình thành năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ Đảng viên mà còn phải góp phần xây dựng phát triển xã hội của tỉnh Ninh Bình xứng đáng với vị trí và vai trò của mình trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoa đất nước.




DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban tư tưởng văn hoá Trung Ương: Nâng cao chất lượng công tác tư tưởng văn hoá góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nhà xuất bản công tác quốc gia, Hà Nội,1997, tập 1
3. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung Ương (khoá VIII ), nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
3. Tiến sỹ: Lương Khắc Hiếu, Nguyên lý công tác tư tưởng, Học viên chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, phân viên báo chí – Tuyên Truyền, Hà Nội, 2004.
4. V.I. Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản tiến bộ,1975,tập sáu trang 30 đến 32.
5. Nghị quyết Trung Ương 6 (lần II): “ Đổi mới công tác giáo dục trong Đảng và trong xã hội về công nghiệp hoá hiện đại hoá và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước”.
6. Hồ Chí Minh: Về công tác tư tưởng, nhà xuất  chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995,tập 2, trang167.
7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 2, trang 2 đến trang 268.
8. Quyết định 37/QĐ – TW ngày 29- 8 – 1995 của ban bí thư Trung Ương (Khoá VII).



MỤC LỤC
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3. Phương pháp và phạm vi nghiên cứu
4. Kết cấu đề tài
Nội dung
Chương I: Một số lý luận chung về hiệu quả giáo dục lý luận chính trị với việc hình thành tư duy lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đối với cơ sở ở tỉnh Ninh Bình hiện nay
1.1. Hiệu quả giáo dục chính trị – khái niệm và tiêu chí
1.1.1. Khái niệm hiệu quả giáo dục lý luận chính trị
1.1.2. Tiêu chí đánh giá hiệu quả giáo dục lý luận chính trị
1.2. Tư duy lý luận và con đường hình thành tư duy lý luận
1.3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả giáo dục lý  luận đạo đức với việc hình thành tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ đảng viên cơ sở hiện nay
1.3.1. Vai trò của vệic nâng cao hiệu quả giáo dục lý tưởng chính trị với việc hình thành tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ - Đảng viên ở cơ sở hiện nay
1.3.2. Vai trò của hoạt động giáo dục lý luận chính trị với việc hình thành tư duy chính trị cho cán bộ đảng viên cơ sở
Chương II: Thực trạng hiệu quả giáo dục lý luận chính trị với việc hình thành tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ đảng viên cơ sở ở tỉnh Ninh Bình hiện nay
2.1. Một số đặc điểm về tỉnh Ninh Bình
2.2. Tình hình công tác giáo dục lý luận chính trị với việc hình thành tư duy lý luận chính trị cán bộ đảng viên ở Ninh Bình hiện nay
2.2.1. Thành tựu và nguyên nhân
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân
Chương III: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị nhằm hình thành tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ cơ sở ở Ninh Bình hiện nay
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo

Một số những giải pháp nhằm khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng nho giáo trong xã hội Việt Nam hiện nay

06:02 |

Một số những giải pháp nhằm khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng nho giáo trong xã hội Việt Nam hiện nay


A: Phần mở đầu
I. Tính cấp thiết của đề tài.
Nho giáo được truyền bá vào nước ta từ trung quốc và bắt đầu du nhập vào nước ta thời kỳ bắc thuộc mặc dù khi truyền bá vào nước ta dân tộc ta đã có một truyền thống văn hóa lâu đời có đạo phật mạnh đã có thời kỳ thịnh hành trong xã hội, nhưng trong suốt hơn một nghìn năm bắc thuộc những ảnh hưởng của nho giáo vào ý thức hệ của người dân việt nam là rất lớn  nho giáo đã ảnh hưởng đến con người và xã hội chính trị và văn hóa đến phong tục tập quán và hệ tư tưởng của người Việt Nam.
 Hơn 70 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam và đặc biệt là từ khi đất nước tiến hành đổi mới nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn việc đất nước tiến hành mở cửa, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã thúc đẩy tạo ra bộ mặt mới cho xã hội. Nhưng bên cạnh  những thành tựu đạt được vẫn còn khá nhiều hạn chế tác động kìm hãm nền kinh tế, chính trị....Đến công cuộc đổi mới ở nước ta làm xáo trộn các mối quan hệ trong xã hội, quan hệ trong gia đình và phẩm chất đạo đức cá nhân.....Một trong những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế đó là do trong xã hội vẫn còn tồn tại những căn bệnh trầm trọng như bảo thủ quan liêu giáo điều chủ nghĩa cá nhân......... mà nguồn gốc sâu xa của căn bệnh đó xuất phát từ những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng nho giáo, do đó việc phát huy khai thác những nhân tố tích cực và loại bỏ những hạn chế, tiêu cực của tư tưởng nho giáo đang là một nhiệm vụ cấp thiết của Đảng ta. Do đó em đã chọn đề tài “Một số những giải pháp nhằm khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng nho giáo trong xã hội Việt Nam hiện nay”
II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
1. Mục đích
Nghiên cứu làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị nho giáo và những  ảnh hưởng tiêu cực của nó trong xã hội Việt Nam hiện nay qua đó nêu ra một số giải pháp nhằm loại bỏ những hạn chế của nó trong đời sống xã hội nước ta hiện nay.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị của nho giáo chỉ  ra những mặt hạn chế, tàn dư của nho giáo ảnh hưởng đến xã hội nước ta hiện nay.
Đưa ra một số giải pháp khắc phục những hạn chế, tiêu cực của nó trong xã hội nước ta hiện nay.
III. Phạm vi, phương pháp nghiên cứu
1. Phạm vi nghiên cứu
Tiêu luận tập trung làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị nho giáo,
ảnh hưởng tiêu cực của nó trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu tiểu luận, tác giả sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác_Lênin,tư tưởng Hồ Chí Minh để phân tích tổng hợp, sử dụng các quan điểm của Đảng cộng sản Việt nam đồng thời sử dụng các phương pháp lôgic và lịch sử, phương pháp quan sát xã hội để kiểm tra khảo sát thống kê, để phân tích đánh giá và kết luận.
IV. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo tài liệu gồm có ba chương.
Chương 1. Quá trình du nhập, vai trò của nho giáo đối với cách mang Việt nam
Chương 2. Những ảnh hưởng tiêu cực của nho giáo đối với xã hội nước ta hiện nay
Chương 3. Những giải pháp nhằm khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng nho giáo đối với xã hội nước ta




B: Phần nội dung.
Chương I. Quá trình du nhập phát triển và vai trò của nho giáo với cách mạng Việt Nam.

1.1.  Sự du nhập và phát triển của nho giáo ở VN.
Trong lịch sử của nước ta phật giáo, đạo giáo và nho giáo đã được du nhập vào Việt Nam từ rất lâu đời và những trào lưu này đã có những vai trò to lớn đáng kể trong hoạt động tư tưởng và văn hóa của nhân dân ta.
Theo lịch sử nước ta dưới thời kỳ nhà Lý, nhà Trần là giai đoạn  nước ta thoát khỏi ách áp bức của bắc thuộc, phật giáo là tôn giáo có thế lực lớn ở nước ta ở cả trong triều đình và cả dân chúng , tuy nhiên trong quá trình  củng cố xây dựng xã hội phát triển kinh tế văn hóa đất nước tầng lớp thống trị việt nam cảm thấy không thể chịu đựng được riêng vào phật giáo mà còn phải có một học thuyết tích cực hơn và nho giáo đã được các triều đại tiếp theo sử dụng lúc đầu nhân dân ta vẫn theo đạo phật mặc dù vậy nho giáo đã dần dần giữ được một vị trí ngày càng tăng trong việc nước và nhân dân.Và từ thời kỳ nhà Lê trở đi  nho giáo đã trở thành quốc giáo của chế độ phong kiến việt nam, tuy vậy Đạo giáo và phật giáo cũng không mất đi mà đôi khi lại đấu tranh chống lại kể thù sâm lược cùng nho giáo.Đến cuối thời nhà Lê ở thế kỷ XVII, XVIII thì chế độ phong kiến suy tàn đã kéo theo sự thất thế của nho giáo cho đến khi nhà Nguyễn đánh bại tây sơn ở đầu thế kỷ XIX thì nho giáo lại được sử dụng như một quốc giáo nhà nước phong kiến phản động của nho giáo để phục vụ giai cấp cầm quyền lúc bấy giờ nho giáo khi được du nhập vào việt nam đã không giữ được trạng thái nguyên sơ của nó đã được các nho sĩ việt nam dựng tổ quốc đã khai thác những tích cực của nho giáo để khẳng định  những giá trị truyền thống của dân tộc.
Dựa trên nhưng quan điểm của tư tưởng nho giáo các nhà nho Việt Nam đã  tiếp thu một cách chủ động và cải tiến đi những tư tưởng quá hà khắc của nho giáo coi các nhà nho Việt Nam cũng muốn nhấn mạnh  quan hệ này nhưng họ vẫn  đòi hỏi  ở nhà vua trước hết  phải trung thành với tổ quốc  và trung thành với nhân dân.
Cùng với quá trình truyền bá  nho giáo vào Việt Nam vào đời sống của nhân dân các nhà nho Việt Nam cũng hoạt động mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực tư tưởng văn hóa và đã có  những đóng góp quan trọng vào quá trình xây dựng nhà nước.Nhiều quan điểm tư tưởng lạc hậu của nho giáo chủ nghĩa duy tâm đã được các nhà nho phát hiện và loại bỏ, những quan điểm tiến bộ của đạo gia và đạo phật lại được tiếp thu sử dụng như quan điểm vô thường của đạo phật khuyến khích đức tính hy sinh coi thường cái chết trong cuộc kháng chiến chống xâm lược.Như vậy nho giáo đã được truyền bá vào nước ta rất lâu đời trải qua nhiều triều đại phong kiến tuy quá trình phát triển của nó có nhiều thăng trầm, có những giai đoạn lịch sử nho giáo bị các triều đại phê phán xóa bỏ nhưng nhìn chung ảnh hưởng của tư tưởng nho giáo là xuyên suốt trong tiến trình lịch sử của VN được các nho sĩ VN tiếp thu và phát triển cải biến phù hợp với điều kiện của từng triều đại nhằm phục vụ cho sự thống trị của giai cấp cầm quyền .
1.2. Vai trò của nho giáo đối với cách mạng VN.
Trên con đường cách mạng của dân tộc VN Hồ Chí Minh vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta trong quá trình dẫn dắt lãnh đạo Đảng ta đã luôn biết tiếp thu những mặt tích  cực của nho giáo vào đường lối chính sách của Đảng tất nhiên Người không thể không gạt bỏ nho giáo bởi nhìn chung tư tưởng của nho giáo là hệ tư tưởng mang tính duy tâm là chủ yếu, nó đại diện của chế độ phong kiến cổ hủ, lạc hậu, nhưng Người đã không đổ đi
“ Chậu nước bẩn cùng đứa trẻ em” Người đã tiếp thu chọn lọc lấy những nhân tố hợp lý của nho giáo nhằm phục vụ  cho cách mạng.
Trước những quan niệm của nho giáo Hồ Chí Minh đã có một sự phát triển chọn lọc sáng tạo tuy xét về cơ bản thì nho giáo và sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh trái ngược nhau hoàn toàn vì cái mà nho giáo tôn thờ nhất lại chính là cái mà cách mạng lên án và đánh đổ.
Trước chữ “ Trung” của nho giáo Hồ Chí Minh đã phát triển lên thành “ trung hiếu” tức trung với nước hiếu với dân, trung thành với sự nghiệp cách mạng lên án chế độ phong kiến chứ không phải trung với vua và chế độ phong kiến như nho giáo.
Nho giáo vua là bậc trí tôn đứng trên xã hội còn nhân dân chỉ là tầng lớp đáng khinh rẻ thì cách mạng lại làm ngược lại đưa quần chúng lên địa vị làm chủ đất nước với nhũng tư tưởng trái ngược nhau như thế nên trên con đường cách mạng VN hầu như nho giáo luôn là  chướng ngại vật của cách mạng, tuy nhiên những quan điểm tích cực của nho giáo lại là những yếu tố mà cách mạng chấp nhận và sử dụng, chính nho giáo đã coi: “ Nhân dân là gốc” và nhận ra sức manh vô địch của nhân dân “ Nhân dân có thể đẩy thuyền nhưng cũng có thể lật thuyền” cách mạng đã tiếp thu và đồng thời đặt nhân dân lên làm lực lượng chính, làm nên lịch sử kêu gọi nhân dân đấu tranh cho quyền dân chủ bình đẳng của mình.
Nho giáo coi khinh phụ nữ và trọng đàn ông hơn cho rằng chỉ có đàn ông mới có khả năng “ trị quốc bình thiên hạ” thì cách mạng  đã xóa bỏ những tư tưởng lạc hậu ấy kêu gọi cả nước đứng lên đánh giặc cứu nước: “ bất kỳ người già, trẻ, gái , trai” ai cũng có quyền sống chiến đấu và tham gia sản xuất quản lý xã hội.Chính sự tiến bộ này mà cách mạng đã giải phóng được một nửa dân số và nâng sức mạnh của quần chúng lên gấp hai lân.
Chính tình thần sáng tạo phát triển hợp lý mà trong quá trình lãnh đạo cách mạng Hồ Chí Minh đã sử dụng rất nhiều những quan điểm của nho giáo nhiều kinh nghiệm giáo dục và tự dưỡng của nho giáo để động viên nhân dân đứng lên đấu tranh chiến đấu với khí phách kiên cường dũng cảm.
Hồ Chí Minh cũng như nho giáo coi “ đạo đức là gốc, cây phải có gốc thì cây héo.Người cách mang phải có đạo đức không có đạo đức có tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”, nếu nho giao coi việc thực hiện lý tưởng là khó khăn Hồ Chí Minh cũng coi nhiệm vụ cách mạng là rất nặng lề và phức tạp và gian khổ.
“Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi xa được người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang”.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mac-Lê Nin, Hồ Chí Minh đã cho nhân dân ta nhận thức rõ được những khó khăn và thuận lợi của cuộc kháng chiến, động viên mọi người trước những thắng lợi ngày một gần, cổ vũ mọi người bằng những tấm gương kiên cường bất khuất của lịch sử dân tộc trong quá trình  đó không thể bỏ qua nhũng lời răn dạy rút ra tù trong nho giáo “ gian khổ đi trước hưởng thụ theo sau mọi người” .
“Giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khổ không thể chuyển lay, uy lực không thể khuất phục ...” tất nhiên không phải để thực hiên mục tiêu của nho giáo mà đi ngược lại mục tiêu ấy mà hướng tới giải phóng tổ quốc dân tộc.
Trong những năm qua công cuộc xây dựng đổi mới đất nước của Đảng ta lãnh đạo đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn bộ mặt xã hội đã được những sự thay đổi đáng kể. Tuy nhiên hiện nay nước ta  vẫn còn muôn vàn khó khăn và thử thách.Những tư tưởng của nho giáo vẫn bám sát chúng ta tiếp tục đem lại cho chúng ta nhiều bài học cả về chính diên và phản diện xã hội ngày nay trong nhân dân những biểu hiện về cả nhận thức tình cảm và hành động, tư tưởng thực dụng suy thoái phẩm chất đạo đức, tham nhũng, buôn lậu, làm giàu bất chính và những tệ nạn xã hội khác phát triển nghiêm trọng.Và trong những biện pháp nhằm khắc phục những tình trạng trên không thể không đụng đến nhiều vấn đề của nho giáo vì ta không thể bào chữa được tính bảo thủ của nó.Vì thế cẫn có những giải pháp khắc phục song tính tích cực của nho giáo la không thể phủ nhận bởi những đóng góp của  nó cho nền văn hóa của nước ta những tác dụng tích cực mà chúng ta cần tiếp thu hiên nay là:
Kế thừa nho giáo trong việc coi trọng học thức tôn sư trọng đạo trong dụng nhân tài
Và tính tích cực ở tình thần “ dấn thân” vào việc cải tạo xã hội, nếu tinh thần “dấn thân” được phát huy trong “ phong trào đổi mới” hiện nay thì nó sẽ có thể động viển trong lực lượng quần chúng, trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Chương II. Những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng nho giáo đối với xã hội nước ta hiên nay.

2.1. Tư tưởng địa vị đẳng cấp 
Nước ta sau khi tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thắng lợi dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân ta đã từng bước tiến hành xây dựng một nền dân chủ kiểu mới,nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đúng như lời chỉ dạy của HCM: “ chúng ta đã hi sinh làm cách mệnh thì làm cho đến nơi nghĩa là làm xong cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều chớ để trong tay bọn ít người, thế dân chúng mới được hạnh phúc”.Tuy vậy chế độ chuyên chế phương đông và nho giáo đã có một khoảng thời gian dài để hằn sâu những ảnh hưởng của tư tưởng không dân chủ vào cách nghĩ, cách sống tâm ly thói quen của người Việt Nam.
Một trong những ảnh hưởng đó phải kể đến địa vị đẳng cấp, gia trưởng đối với người cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay.Xã hội bao giờ cũng đòi hỏi một trật tự một hệ thống các vị trí cá nhân khác nhau xuất phát từ phân công lao động xã hội và quan hệ xã hội. Một số cán bộ của ta hiện nay vẫn còn những quan niệm quản lý không phải là một nghề mà là một địa vị,là cơ hội điều kiện tốt để thoả mãn ham muốn quyền lực hay thu lợi bất chính, điều quan trọng ở đây một số can bộ có quan niệm tự cho mình là người lãnh đạo đứng trên tập thể quẩn chúng đối lập với quần chúng, trong mắt họ nhân dân la những người “ Dân đen” bảo sao nghe vậy là đối tượng quản lý sai khiến... đó là những biểu hiện xấu là tiền đề cho nạn tham nhũng, quan liêu...vấn đề này HCM cũng đã từng phê phán:  “ tin cậy thế mình ở ban này ban nọ,rồi ngang tàn phóng túng,muốn sao được vậy, coi khinh dư luận không nghĩ đến dân, quên rằng dân bầu mình ra để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy thế với dân.”
Trong công cuộc đổi mời hiện nay cơ chế quản lý kinh tế hành chính cũng như luật pháp của nhà nước ta vẫn còn thiếu sót vẫn còn tồn tại những cơ hội nhất định để những người có tư tưởng cá nhân chủ nghĩa lợi dụng,làm giàu bất chính tư tưởng địa vị đẳng cấp không những không mất đi mà còn có chiều hướng gia tăng .
ảnh hưởng tư tưởng địa vị đẳng cấp không chỉ ảnh hưởng đến thái độ nhận thức hành động của những người cán bộ mà còn ảnh hưởng đến những người dân.Nhiều năm xây dựng nền dân chủ XHCN về cơ bản người dân đã nhận thức được quyền lợi và nghĩa vụ của mình tuy vậy một số bộ phận nhân dân nhất là những người dân ở vùng nông thôn, vùng sâu xa mà mọi quan hệ họ hàng làng xóm và các tập tục cũ vẩn còn chi phối cuộc sống hằng ngày vẫn còn những tư tưởng an phận chấp nhận thực tại, không chịu sống theo pháp luật không đấu trang để tự bảo vệ mình với công việc chung họ im lặng và lẩn tránh không có tinh thần trách nhiệm xây dựng đây là một cơ hội để những tư tưởng xấu lợi dụng.Như vậy tư tưởng địa vị đẳng cấp vẩn còn tồn tại khá phổ biến ở xã hội nước ta mà chưa hề mất đi mà trái lai khi có thời cơ nó lại tiếp tục tồn tại và co khi phát triển đây là điều rất đáng lo ngại vì nó không chỉ tác động xấu đến nhận thức hành động của người cán bộ và nhân dân mà điều quan trọng hơn nữa là ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước hiện nay
2.2. Tư tưởng trọng nam khinh nữ.
Nhà nước ta là nhà nước của dân do dân và vì dân tất cả mọi người dù trẻ hay già nam hay nữ đều có quyền bình đẳng ai cũng có quyền được hưởng tư do ấm no hạnh phúc, xong trong một số bộ phận nhỏ người dân trong xã hội cũng còn những tư tưởng bất bình đẳng trọng nam khinh nữ, hiện nay ai cảm nữ giới bao giờ cũng kém hơn nam giới mang cái gì đó rủi ro không may mắn. Đây là một tư tưởng cổ hủ lạc hậu mà ảnh hưởng của nó trong cán bộ của nước ta hiện nay vãn còn khá nhiều.
Trong các cuộc họp bàn hay bầu cử ,ứng cử những người nữ giới luôn hạn chế số lượng hơn nam giới hay cho dù co nhiều bằng số lượng nhưng khả năng giải quyết các công việc hệ trọng bao giờ cũng thuộc về nam giới là phần nhiều. Xét trong cơ cấu bộ máy quản lý của nhà nước ta hiện nay số lượng nữ giới chiếm giữ những vị trí lãnh đạo cao là rất ít và hạn chế.Điều đó thể hiện ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng trọng nam khinh nữ đối với xã hội nước ta là còn rất nhiều , đặc biệt là xét trong các mối quan hệ giữa những người dân mà đặc biệt là những người  dân ở nông thôn nơi mà trình độ thông tin khoa học sự phát triển của tri thức khoa học còn chậm thì tư tưởng này la khá rỏ nét .Còn rất nhiều gia đình ở nông thôn hiện nay hình ảnh của những người phụ nữ chỉ mang ý nghĩa sinh nở và phục vụ gia đình mà không có vai trò trong các công việc chính trị xã hội, trong gia đình người chồng người cha thường quán xuyến chi phối toàn bộ những công việc của gia đình, người phụ nữ chỉ biết nghe lời mà không được tham gia.Việc coi trọng con trai hơn con gái đã ăn sâu vào tâm thức thói quen quả người dân là một trong những nguyên nhân của việc sinh đẻ việc tăng dân số nhanh ở nước ta mà đặc biệt là những vùng nông thôn ít tiếp cận với tri thức nhân loại .đây là một ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng nho giáo cần khắc phục nhằm đảm bảo cho sự phát triển vững chắc của nước ta.
2.3.  Tư tưởng phục cố và thân tộc.
Tư tưởng phục cố: Ngày nay ta đang trên đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội mục tiêu của chúng ta là xây dựng một nhà nước tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc khoa học đại chúng, vừa kết hợp nét truyền thống tốt đẹp của dân tộc vùa tiếp thu những tinh hoa của nhân loại nhưng bên cạnh việc tiếp thu những cái hay cái đẹp chúng ta cũng cần gạt bỏ những cái lạc hậu ,lỗi thời không còn phù hợp với xã hội nước ta hiên nay mà một trong những hạn chế đó là tu tưởng “hiếu cổ”với ý nghĩa quá cao,cực đoan một chiều tư tưởng hiếu cổ nếu không có điểm dừng đúng múc gieo vào lòng người “sự sùng cổ”, “lệ  cổ” không có cài nhìn đúng đắn và khái quát về truyền thống mà chỉ có cái nhìn một chiều,xây dựng những nét cổ truyền thống của nước ta là một trong những nhiệm vụ của Đảng và nhân dân ta nhưng trong quá trình đó chúng ta phải có một cái nhìn đúng đắn phải khôi phục xây dựng nét truyền thống qua “cái sàng lọc”của tầm nhìn chúng ta, biết gạt bỏ đi những yếu tố lạc hậu lỗi thời mà xét trong xã hội ngày nay nó sẽ kìm hãm níu kéo cản trở rất lớn đối với xã hội, kìm hãm sự phát triển sáng tạo của các lĩnh vực hoạt động của nước ta.
Tư tưởng thân tộc: HCM vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta đã từng phê phán những quan điểm và hành vi lệch lạc trong quan hệ gia đình người đã nêu rõ tình trạng kéo bè kéo cánh đua bà con bạn hữu không có tài năng vào chức này chức nọ mà quên mất rằng việc là công việc chứ không phải việc riêng gì của dòng họ ai .Người căn dặn: “ Phải cân nhắc lụa chọn giữa gia đình to và gia đình nhỏ.người cách mạng bao giời cũng cho gia đình to.Đến CNXH hay CNCS gia đình chung đã có hạnh phúc vì vậy trong lúc cách mạng đang còn gay go phải chọn cái lớn nếu phải chọn hi sinh gia đình nhỏ cho gia đình lớn thì cũng phải làm.”
Do những ảnh hưởng của nho giáo hiện nay tư tưởng “ thân tộc”vẩn đang tồn tại trong các tầng lớp xã hội Việt Nam mà đặc biệt la trong những người cán bộ của đảng ta do nắm được quyền lãnh đạo đã sử dụng quyền đó để đưa kéo họ hành thân tộc mình vào những chức vụ khác nhau trong cơ quan mình làm hay dụa vào vị thế mà xin cho người thân vào những vị trí khác nhau cho dù người đó có năng lực có bằng cấp hay không.Trên thực tế việc giải quyết các vấn đề trong đời sống xã hội thường phụ thuộc vào tình cảm cha con, mẹ con ,vợ chông,anh em.... thói chiếu cố rộng rãi đến bà con họ hàng như xin việc đề bạt ....... nhìn ngoài mối quan hệ này có vẻ ấm cúng nhưng nó lại chứa nhiều mầm mống thiếu dân chủ mất đoàn kết bè phái và nhiều hành vi tiêu cực khác. Quan niêm “ nhà trước, cước sau”, “ nhất con nhì cháu thứ sáu mới đến người dưng” hầu như đã thành đạo lý khống chế tư duy và hành động của bộ phận xã hội .Mà việc khắc phục những tư tưởng hạn chế đó là một nhu cầu cấp thiết hiên nay.
2.4. Tư tưởng thần bí tôn giáo.
Nói đến tư tưởng thần bí tôn giáo trong nho giáo chúng ta đề cập đến hai vấn đề cơ bản đó là tin vào “ mệnh trời” và việc tin vào thần thánh mê tín dị đoan.
Trong nho giáo cho rằng trời không phải chỉ là thiên nhiên, không phải là vô hình, mà là trời có ý chí là thiên đế, có thể vô hình hay hữu hình nhưng trời là một lực lượng siêu nhân quy định trật tự xã hội và tự nhiên. Mệnh trời là ý trí của trời không cưỡng lại được chỉ có đợi mà thôi.
Các nhà nho có thể có hoặc không nói về trời, nhưng ai cũng tin vào mệnh, đã có mệnh thì hãy đợi mệnh, tuy vậy họ vẫn  khuyến khích sự cố gắng của bản thân phải ra sức làm điều lành điều tốt phải tự cường chứ không để trôi còn làm đến đâu thành hay bại là do mệnh trời định sẵn như vậy ta có thể nhận thấy tính tích cực của nho giáo trong vấn đề này cho đến ngày nay tư tưởng đó còn ăn sâu vào khà nhiều người dân chúng ta, đặc biệt là những người nông dân ít tiếp cận với nền văn minh nhân loại tư tưởng này có thể dẫn đến sự cam chịu, chấp nhận nhẫn nhục trước hoàn cảnh từ bỏ đấu tranh dĩ hòa vị quý không có tinh thần vươn lên khả năng bị kìm hãm không phát triển được tài năng,
Trong xã hội Việt Nam hiên nay tư tưởng lạc hậu tin vào thần thánh tà ma cũng là một hạn chế rất lớn đối với quá trình phát triển của đất nước mà một nguyên nhân của quan niêm tư tưởng lạc hậu ấy xuất phát từ tưởng của nho giáo .
Khi nho giáo bàn vê vũ trụ quan đã nói vê linh hồn và việc thờ thân thánh trong lịch sử nhiều nha nho đã đưa tư tưởng duy tâm huyền bí của phật giáo vào tư tưởng của nho giáo và từ đó làm cho người dân ta tin vào một lực lượng siêu nhiên nào đó có một sức mạnh huyền bí có thể làm thay đổi cuộc sống của họ do đó đã dẫn đến việc thờ cúng thần thánh linh hồn  tất nhiên khi nói đến mê tín dị đoan chung ta nên phân biệt rõ mê tín và phong tục người việt nam có phong tục thờ cúng tổ tiên đây là một phong tục truyền thống mang nét đẹp văn hóa của người việt nam. Nhưng bên cạnh đó việc sùng bái thần thánh, tin vào các linh hồn dẫn đến mù quáng làm ảnh hưởng đến đời sống xã hội và phát triển kinh tế của đất nước đang là một vấn đề khá là bức xúc của xã hội hiện nay .
Như vậy trước những vân đề tiêu cực lạc hậu của tư tưởng nho giáo đang ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình xây dựng và phát triển của đất nước , ảnh hưởng đến mục tiên lý tưởng  đi lên của CNXH của Đảng nhà nước và nhân dân ta chúng ta cần sớm tìm ra những phương hướng giải pháp tích cực tủ thể để nhanh chóng xóa bỏ những mặt tiêu cực và phát huy những mặt tích cực của nho giáo nhằm phục vụ cho quá trình xây dựng và đổi mới hiện nay ở nước ta.


Chương III. Một số giải pháp nhằm khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng nho giáo đối với xã hội nước ta hiện nay .

Từ những mặt hạn chế của nho giáo mà đã nêu trên chung ta nhận thấy sự cần thiết của việc tìm và đưa ra một số giải pháp nhằm gạt bỏ những tư tưởng tiêu cực đó  song tư tưởng nho giáo khoảng chiều dài thời gian tồn tại ỏ việt nam đã ăn sâu vào ý thức hệ của con người việt nam để giải quyết những mặt tiêu cực này không phải là vấn đê một sớm, một chiều mà phải tiến hành tư tư lâu dài tất nhiên việc loại bỏ những tiêu cực của nho giáo đảng và nhà nước ta cũng cần quan tấm đến vấn đề phát huy những mặt tích cực của nó nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước .
3.1. Nắm vừng chủ nghĩa duy vật mác xít và tư tưởng  HCM
Trước tiên chung ta muốn xóa bỏ những tiêu cực của nho giáo ta phải có  cái nhìn biện chứng khoa học với nho giáo khi nói đến hạn chế không có nghĩa là nho giáo tất cả đều là tiêu cực mà chúng ta phải biết chọn lọc những mặt tích cực của nho giáo.Biết đâu là tiêu cực là tích cực để giải quyết phù hợp.Nhiệm vụ của cách mạng văn hóa là quét sạch những tàn dư của tư tưởng nhưng chúng ta phải tỉnh táo tránh gạt bỏ những cái cũ một cách mù quáng điều đó đòi hỏi tiếp thu những thành tựu tinh hoa văn hóa của nhân loại và những đỉnh cao của văn hóa loài người để đấu tranh với cái cũ xây dựng xã hội mới trên cơ sở biện chứng của maxit 
HCM vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc đã tiếp thu một cách sáng tạo chọn lọc những tư tưởng của  nho giáo một cách biện chứng.Người đã kế thừa và cải tiến biến nhưng tư tưởng nho giáo trở thành vũ khí sắc bén để phục vụ cho cách mạng người khẳng định “cán bộ là đầy tớ của nhân dân” phải luôn là tấm gương sáng của nhân dân “ người dân bầu ra cán bộ để phục cho nhân dân” có như vậy mới có thể đưa đất nước theo đúng mục tiêu lý tưởng nguyện vọng của nhân dân trong kháng chiến cũng như trong xây dựng đất nước HCM vận dụng nhiều tư tưởng quan niệm của nho giáo, thường “ cách mạng văn hóa” những lời răn dạy của nho giáo hướng vào mục tiêu phục vụ cách mạng giải phóng dân tộc 
3.2 Phát triển nền kinh tế nhiêu thành phần định hưởng theo XHCN 
Phát triển nền kinh tế nhiêu thành phần định hưởng theo XHCN  sẽ tạo ra một nền sản xuất hàng hóa rộng lớn, đặt ra nhu cầu trao đổi trên phạm vị rộng trên thế giới sẽ tạo ra điều kiện xóa bỏ những tư tưởng cục bộ hẹp hòi ,bảo thủ trong cán bộ và trong nhân dân sự trao đổi tất yếu dẫn đến sự trao đổi qua lại tạo ra sự linh hoạt chủ động xóa bỏ tư tưởng khép kín tự cung tự cấp  của nhân dân ta
Trước đây khoảng cách giữa các địa phương thường khép kín không trao đổi giao lưu trước sự Phát triển nền kinh tế nhiêu thành phần thúc đẩy các địa phương phải hợp tác liên doanh để  tạo ra sức mạnh trong sản xuất có như vậy những tư tưởng cục bộ tách biệt giữa các vùng địa phương sẽ không có nhiều cơ hội để tồn tại và mất đi cùng sự phát triển của xã hội 
Do vậy phát triển khinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng CNXH lạ một trong những yếu tố quyết định để cải tạo xã hội , xóa bỏ những tư tưởng lạc hậu của nước ta.Đó cũng là điều kiện khắc phục những tàn dư của nho giáo xây dựng tư tưởng XHCN.
3.3 Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện dân chủ hóa trong XH khi đất nước giành độc lập 
Bác Hồ khẳng định : “ nước ta là một nước dân chủ bao nhiêu lợi ích đêu do dân vì dân bao nhiêu quyền hạn đêu là của dân....”.Xây dựng nhà nước XHCN là xây dựng một nhà nước dân giàu nước mạnh một nhà nước của dân do dân vi dân vì thế việc xây dựng nền dân chủ XHCN là đòi hỏi tất yếu khách quan của quá trình cách mạng XHCN đồng thời việc xây dựng nền dân chủ XHCN sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc đấu tranh chống lại những tư tưởng tiêu cực của nho giáo trong xã hội 

Việc xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta trong thời gian qua bên cạnh những kết quả tích cực rất tiến bộ vẫn còn một số hạn chế mà ở đó việc thực hiện quyền dân chủ thực sự hiểu quả trong xã hội vẫn không ít hiện tượng mất dân chủ , dân chủ hình thức bệnh quan lêu tư tưởng phong kiến , gia trưởng còn nhiều ... điều đó cho ta  thấy sự mất dân chủ sẽ rất dễ dẫn đến một số hiện tượng tiêu cực của đời sống XH . việc thực hiện dân chủ hóa sẽ dẫn đến quyền lực nhà nước thuộc về dân , do dân và vì dân mọi công việc của nhà nước đều do dân biết dân bàn dân lam dân kiểm tra thông qua quốc hội quyền lực của nhân dân sẽ được thực hiện một cách  nhất và có quy tắc cơ chế này sẽ làm cho tính tự giác , năng động , vươn lên của cá nhân , phát hiện và khắc phục kịp thời những biểu hiện tiêu cực của cán bộ như giáo điều, quan liêu gia trưởng thường khoa học kỹ thuật hay tư tưởng “ trong nông ước thương” sẽ không còn khả năng tồn tại hơn nữa xây dựng nền văn hóa cũng gắn với việc nâng cao dân trí, áp dụng khoa học kỹ thuật như vậy sự phát triển của nền văn minh, sự phát triển của dân trí sẽ làm cho người dân tự giác hiểu và có sự chọn lọc đúng đắn với những tư tưởng tiến bộ như vậy những tư tưởng lạc hậu  cũng sẽ tự mất đi những giá trị tốt đẹp như lòng yêu thương con người, coi trọng tình nghĩa đạo lý sẽ tiếp tục được phát huy mang cốt cách riêng của con người việt nam hiện đại .
3.4 Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là nền văn hóa thể hiện niềm tự tin tinh thần yêu nước tiến bộ, tinh thần nhân văn cách mạng tinh thần dân chủ mang tính  hiện đại nó không chỉ mang những hệ tư tưởng thành tố quan trọng của nền văn hóa tiên tiến mà còn là trình độ dân trí khoa học công nghệ đồng thời mang nó cốt cách lối sống của dân tộc những tinh hoa của quá khứ cũng như những giá trị tốt đẹp của thời đại.
Nho giáo là một bộ phận của truyền thống trong lịch sử của dân tộc ta trải qua hàng ngàn năm những tư tưởng của nho giáo đã được truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác những quan điểm tư tưởng của nho giáo đã là cơ sở để nhân dân ta xây dựng và tổ chức xã hội phát triển văn hóa đạo đức .....
Việc xây dựng của nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc sẽ góp phần vào  việc chúng ta sẽ chắt lọc tiếp thu những giá trị tinh hoa của nho giáo để xây dựng  nền văn hóa mới đồng thời từ sự sàng lọc tinh hoa đó sẽ góp cho chúng ta loại bỏ đi những ảnh hưởng không tích cực của nó trong đời sống xã hội chúng ta.
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đầm đà bản sắc dân tộc những giá trị của nho giáo sẽ được nâng lên xây dưng thêm phù hợp với sự phát triển của xã hội hòa nhập giữa truyền thống và hiện đại sẽ làm những tư tưởng lạc hậu không phù hợp như khép kín,coi thường khoa học kỹ thuật hay tư tưởng “ trọng mộng ước thường” sẽ không còn khả năng tồn tại hơn nữa xây dựng nền văn hóa mới.
3.5 Tiếp thu kinh nghiệm khai thác nho giáo ở một số nước châu á vào quá trình đổi mới ở nước ta.
Trong những thế kỷ trước đây nhất là thời kỳ phong kiến nho giáo có nhiều giai đoạn đã bị các triều đại phong kiến trù dập ghét bỏ phê phán nhưng cũng có nhiều triều đại phong kiến coi nho giáo như quốc giáo của dân tộc mình vì thế những ảnh hưởng  của tư tưởng nho giáo đã ăn sâu vào tâm trí tình cảm của rất nhiều người phương đông bì vậy khi bắt đầu bước vào xây dựng đất nước tại nhiều nước châu á đã có những chính sách biện pháp để  khai thác những mặt tích cực của nho giáo vào quá trình xây dựng đất nước mình tiêu biểu là 4 nước có nền kinh tế phát triển mạnh ngày nay được mệnh danh là “ Con giồng châu á ” là Hàn quốc - Đài loan – Hồng công và Singapore.
Việt nam là nước nằm ở khu vực đông nam á và cũng có rất nhiều điểm tương đồng về các mặt như kinh tế chính trị văn hóa với các nước trên do đó việc chủ động tiếp thu những kinh nghiệm tham khảo cách khai thác những giá trị tích cực của nho giáo và loại bỏ đi những giá trị cực hạn chế kìm hãm sự phát triển của các nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội là một yêu cầu đồng thời cũng là thời cơ có điều kiện tốt của chúng ta .

3.6.Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho người dân
 Ngày nay dưới sự lãnh đạo của Đảng và nhân dân ta công cuộc đổi mới đất nước do đảng khởi sướng và lãnh đạo trình độ của người dân được nâng cao tính năng động hoạt bát tầm nhìn sâu rộng và nhạy bén với thời cuộc trước sự biến động của thế giới .
Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực đó hiện nay trong nhân dân ta vẫn còn nhiều hạn chế thiếu ý thức rèn luyện non kém về ý thức  chính trị chưa sác định  được đúng đầu cách mạng thụ động thời cơ và không muốn tham gia vào các hoạt  động chính trị xã hội giúp họ nâng cao sự hiểu biết về lý luận cách mạng .
Giáo dục chính trị tư tưởng cho người dân để giúp họ có nhận thức đầy đủ về chính trị  xã hội giúp họ nâng cao nhận thức kiến thức về lý luận cách mạng nâng cao sự hiểu biết về con đường đi bên chủ nghĩa xã hội về truyền thống quý báu của dân tộc ý trí chiến thắng đói nghèo lạc hậu, lối sống thực dụng vị kỷ, coi đồng tiền là trên hết lấy hưởng thụ là chính phục vụ là bắt buộc, thiếu trách nhiệm với gia đình xã hội cũng như các biểu hiện khác,thúc đẩy người dân vươn lên nắm bắt lấy đường lối chính sách mục tiêu của đảng và nhà nước thúc đẩy người dân chủ động tham gia vào sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Bác Hồ  đã chọn.


C: Phần Kết Luận

Nho giáo  đã từng là hệ tư tưởng của các triều đại phong kiến Trung quốc trong suốt hơn 2000 năm lịch sử tư tưởng của nho giáo đã góp phần quan trọng trong việc xây dựng và duy trù các nhà nước phong kiến vững mạnh.
Đối với nước ta nho giáo nho giáo cũng đã từng giữ vị trí đặc biệt và có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân dân ta qua các giai đoạn lịch sử.
Ngày nay chúng ta đang trên con đường tiến lên CNXH với những thành tựu rực rỡ mà Đảng và nhân dân ta đã từng đạt được đã đưa nước ta tiến nhanh tiến mạnh và vững chắc trên con đường đã chọn nhưng bên cạnh những thành tựu ấy vẫn còn nhiều mặt tiêu cực thách thức đặt ra cho Đảng và nhân dân ta và một trong những thách thức ấy là những mặt hạn chế tiêu cực của nho giáo trong tư tưởng của người dân và cán bộ nước ta đây là một yếu tố quan trọng đã gây ra không ít khó khăn kìm hãm đối với sự nghiệp dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh đến thành công chúng ta phải có những giải pháp chính sách, đường lối đúng đắn để loại trừ những mặt tiêu cực đồng thời điều quan trọng hơn nữa là biết tiếp thu những yếu tố tích cực trên các lĩnh vực của nho giáo. 
Ngày nay chúng ta cần phải xóa bỏ đi những tư tưởng của nho giáo đó là tư tưởng địa vị đẳng cấp gia trưởng, tâm lý coi thường pháp luật sống khép kín, lối làm việc quan liêu của cán bộ công chức mang nặng tính giáo điều cửa quyền, kinh nghiệm, tư tưởng bảo thủ trì trệ.....CN quan liêu ở giới cầm quyền, CN bình quân ở nông dân và giáo điều ở tri thức đó là những tư tưởng hạn chế đang còn tồn tại trong nhận thức và hành động của một số bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân gây ra những ảnh hưởng mất dân chủ ở nhiều nơi cản trở quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền và phát huy dân chủ XHCN ở nước ta.
Trong sự nghiệp xây dựng đất nước hiên nay đòi hỏi đảng và nhà nước ta phải kiên quyết tìm ra những giải pháp thích hợp để khắc phục và loại bỏ đi những ảnh hưởng tiêu cực của nho giáo tất nhiên đây không phải là việc có thể giải quyết ngay trong một sớm một chiều mà phải kiên định, dần dần từng bước đi thích hợp điều quan trọng là làm cho nhân dân tự có được ý thức tự giác xóa bỏ lạc hậu cổ hủ tư tưởng nho giáo để đến với những tinh hoa văn minh của thời đại có như vậy con đường đi lên CNXH của nhà nước ta mới có thể thực hiện mục tiêu trên lý tưởng của Đảng và nhà nước ta mới có thể thắng lợi vẻ vang. 


Danh mục tài liệu tham khảo

Đề cương bài giảng nghiên cứu quán triệt đại hội Đảng lần IX 
Giáo trình hệ tư tưởng ( 2002 )HVCT QG HCM
Nho giáo xưa và nay( 1997 ) nhà xuất bản KHXH_ HN
Nho giáo và phát triển ở VN (1997) nhà xuất bản KHXH_HN
Hồ Chí Minh (1995) toàn tập 9 NXBCTQG_HN
Hồ Chí Minh (1995) toàn tập 9 NXBCTQG_HN
Hồ Chí Minh (1987) toàn tập tập 7 NXB sự thật _ HN
Tư tưởng Hồ Chí Minh (tập bài giảng) NXBCTQG
Tài liệu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh NXBCTQG
10. Văn kiên ĐHĐBTQ lần IX (2001) NXBCTQG

Một số giải pháp nhằm khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng nho  giáo đời sống xã hội Việt Nam hiện nay.
Mục lục

a. Phần mở đầu
I. Tính cấp thiết của đề tài
II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
III. Phạm vi, phương pháp nghiên cứu
IV. Kết cấu của đề tài
B. Phần nội dung
Chương I: Quá trình du nhập phát triển và vai trò của Nho giáo với cách mạng Việt Nam 3
1.1. Sự du nhập và phát triển của Nho giáo ở Việt Nam 3
1.2. Vai trò của Nho giáo đối với cách mạng Việt Nam 4
Chương II: Những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng Nho giáo đối với xã hội nước ta hiện nay 7
2.1. Tư tưởng đại vị đẳng cấp
2.2. Tư tưởng trọng nam khinh nữ
2.3. Tư tưởng phục cố và thân tộc
2.4. Tư tưởng thần bí tôn giáo
Chương III: Một số giải pháp nhằm khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng Nho giáo đối với xã hội nước ta hiện nay
3.1. Nắm vững chủ nghĩa duy vật Mác-xít và tư tưởng Hồ Chí Minh
3.2. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng theo XHCN
3.3. Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện dân chủ háo trong xã hội khi đất nước giành độc lập
3.4. Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
3.5. Tiếp thu kinh nghiệm khai thác Nho giáo ở một số nước Châu á vào quá trình đổi mới ở nước t
3.6. Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho người dân
C: Phần kết luận
Tài liệu tham khảo