Sự ảnh hưởng của Phật giáo Hoà Hảo đến hoạt động an ninh, trật tự truyền thống tự ở miền Tây Nam Bộ

02:14 |
Một số vấn đề về Phật giáo Hoà Hảo và sự ảnh hưởng của Phật giáo Hoà Hảo đến hoạt động an ninh, trật tự, truyền thống ở miền Tây Nam Bộ trong giai đoạn từ năm 1975 đến nay
sự ảnh hưởng của Phật giáo Hoà Hảo đến hoạt động an ninh, trật tự truyền thống tự ở miền Tây Nam Bộ


Phần mở đầu

1. Lý do chọn đề tài
Những thập kỷ cuối thế kỷ 20 và những năm đầu của thế kỷ 21, tình hình tôn giáo trên thế giới và trong nước có nhiều diễn biễn phức tạp, đã và đang đặt ra vấn đề cần được lý giải trên cơ sở khoa học. Hiện nay, tôn giáo đang trở thành một trong những vấn đề thu hút sự quan tâm chú ý của các nhà khoa học cũng như những nhà hoạt động thực tiễn.
Hội nghị lần thứ VII, Ban chấp hành  Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khoá IX, đã ra Nghị quyết về công tác tôn giáo nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp  khối đại đoàn kết dân tộc, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu: “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Trong giai đoạn mới của cuộc công nghiệp xã hội chủ nghĩa, Nghị quyết Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định: “Tín ngưỡng là nhu cầu của một bộ phận nhân dân đang và sẽ tồn tại trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước đó”.
Cùng với 5 tôn giáo lớn ở nước ta, Phật giáo Hoà Hảo là một tôn giáo có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của tín đồ nhân dân ở khu vực miền Tây Nam Bộ. Qua quá trình tồn tại và phát triển, vấn đề Đạo - Đời của Phật giáo Hoà Hảo có nhiều vấn đề phức tạp về an ninh và xã hội. Do vậy, trong quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, giải pháp nhằm phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội ở vùng  Tôn giáo nói chung và Phật giáo Hoà Hảo nói riêng, làm cho đời sống tinh thần ở vùng ngày một nâng cao, an ninh – xã hội ngày càng ổn định và phát triển.
Khi mới ra đời, Phật giáo Hoà Hảo không chỉ được coi là một hiện tượng Tôn giáo nhằm thoả mãn nhu cầu tín ngưỡng của tín đồ mà còn được nhìn nhận như một phong trào yêu nước. Song quá trình tồn tại và phát triển, trong mối quan hệ với các thế lực đế quốc (Pháp, Nhật, Mỹ…) và chính quyền tay sai, vấn đề Đạo - Đời của Phật giáo Hoà Hảo trở nên phức tạp, tính dân tộc của một phong trào yêu nước được thay thế bởi những tham vọng chính trị của những cá nhân hay các tổ chức phản động trong Phật giáo Hoà Hảo.
Sau ngày miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước, giáo hội Phật giáo Hoà Hảo cũng như các tổ chức chính trị, quân sự của nó không còn hoạt động nhưng tín ngưỡng của giáo lý Hoà Hảo là “học Phật, tu Nhân”, một số phần tử phản cách mạng là tín đồ Hoà Hảo trong thời gian qua đã tích cực chống phá cách mạng Việt Nam trong công cuộc xây dựng đất nước trên nhiều lĩnh vực và nhiều hình thức khác nhau. Chúng lợi dụng chính sách đổi mới, mở cửa,hoà cùng âm mưu hoạt động “Diễn biễn hoà bình” của các thế lực thù địch, đặc biệt là sự hà hơi tiếp sức của một số đối tượng Hoà Hảo lưu vong ở nước ngoài.
Vì là Tôn giáo nội sinh, ra đời muộn hơn so với các Tôn giáo khác, tín đồ tuy đông nhưng chủ yếu tập trung ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ; Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, rất rõ nét của Phật giáo Hoà Hảo như: giáo lý khuyên dạy người ta: “làm lành, làm dữ”, duy trì những giá trị truyền thống và phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc, đề cao lòng tự tôn, tự hào dân tộc… Phật giáo Hoà Hảo còn có những hạn chế như: một số nội dung của giáo lý ảnh hưởng không tốt tâmlý của tín đồ, hình thành nên các dư luận, tin đồn thất thiệt về các hiện tượng như lũ lụt, hạn hán… hoặc các biến cố thất thường trong xã hội đồng thời đã gây nên sự đánh giá  khác nhau về Phật giáo Hoà Hảo, đó là tình hình “Chính trị hoá” cao độ. Song, đứng trên quan điểm khách quan để xem xét, thì cũng như một số tôn giáo khác ra đời và phát triển trong một thời kì có nhiều biến đổi quan trọng của lịch sử dân tộc, Phật giáo Hoà Hảo không tránh khỏi việc bị các thế lực thù địch lôi kéo và lợi dụng, Nhưng sự lợi dụng đó có lúc khá trầm trọng và không chỉ gây thiệt hại cho cách mạng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ vừa qua, mà còn gây ra tình trạng chia rẽ không bình thường trong nội bộ Phật giáo Hoà Hảo.
Để nhận thức đầy đủ về thực trạng và bản chất của Phật giáo Hoà Hảo; góp phần thực hiện tốt hơn trong công tác đảm bảo an ninh trật tự trên lĩnh vực và địa bàn có tín đồ - Phật giáo Hoà Hảo; đồng thời để xử lý tốt mối quan hệ tôn trọng giữa quyền tự do tín ngưỡng với đấu tranh chống âm mưu lợi dụng Tôn giáo - Phật giáo Hoà Hảo. Với lý do đó, em muốn vận dụng sự hiểu biết của mình để trình bày đề tài: “Một số vấn đề về Phật giáo Hoà Hảo và sự ảnh hưởng của Phật giáo Hoà Hảo đến hoạt động an ninh, trật tự truyền thống tự ở miền Tây Nam Bộ trong giai đoạn từ năm 1975 đến nay”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Từ khi ra đời (1939) đến nay, Phật giáo Hoà Hảo vốn là một trong những vấn đề được cả xã hội quan tâm. Vì vậy, trong giai đoạn từ 1975 đến nay, trên cơ sở chức năng và nhiệm vụ của các cơ quan đơn vị ở địa phương có đồng bào theo đạo đã có sự nghiên cứu tìm hiểu về Phật giáo Hoà Hảo. Tuy nhiên, vì là Tôn giáo nội sinh, lại ra đời muộn hơn so với  các tôn giáo khác, tín đồ tương đối đông tập trung nhiều ở một số tỉnh miền Tây Nam Bộ như: An Giang, Đồng Tháp, Thành phố Cần Thơ, Vĩnh Long… không ảnh hưởng và lan rộng đến các vùng khác điển hình như là miền Bắc. Do vậy, các vấn đề nghiên cứu về Phật giáo Hoà Hảo thường là những vấn đề cụ thể, vụ việc và khai thác ở nhiều góc độ khác nhau. Có thể nói, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện về Phật giáo Hoà Hảo.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.
- Với lý do chọn đề tài ở trên, do vậy đề tài nghiên cứu được xác định bởi hai mục tiêu chủ yếu sau:
+ Trên cơ sở lý luận chung về Tôn giáo, nguồn gốc và sự ra đời của Phật giáo Hoà Hảo, vấn đề cơ bản về giáo lý, luật lệ lễ nghi; Lịch sử tồn tại và phát triển của Phật giáo Hoà Hảo và từ thực trạng về tình hình hoạt động ảnh hưởng đến an ninh trật tự của các đối tượng của Phật giáo Hoà Hảo… góp phần nâng cao nhận thức và hiểu đúng về Phật giáo Hoà Hảo ở phạm vi rộng, đặcbiệt là các vùng có tín đồ theo đạo.
+ Từ đó, đưa ra kiến nghị đề xuất một số chính sách, đặc biệt là giải pháp thực hiện để xử lý tốt mối quan hệ giữa tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng với đấu tranh chống các phần tử lợi dụng tôn giáo để thực hiện “Diễn biến hoà binhg” chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam. Đảm bảo an ninh trật tự ở địa bàn có tín đồ Phật giáo Hoà Hảo.
- Để đạt được mục tiêu đề ra ở trêm, nhiệm vụ của đề tài như sau:
+ Khái lược lý luận chung về Tôn giáo, khái quát về nội dung cơ bản của Phật giáo Hoà Hảo.
+ Tập trung làm rõ tình hình hoạt động có ảnh hưởng đến an ninh trật tự của các đối tượng trong Phật giáo Hoà Hảo và công tác đấu tranh của ta từ năm 1975 đến nay.
+ Đưa ra các giải pháp sao cho thiết thực và đúng theo đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam, nhămg góp phần đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn có Tôn giáo (đạo Hoà Hảo).
4. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu.
- Về phạm vi: Mặc dù có nhiều vấn đề liên quan đến đạo Hoà Hảo đã, đang và sẽ được nghiên cứu, và ở đây đề tài cần tập chung vào những vấn đề liên quan đến Phật giáo Hoà Hảo từ phương diện các phần tử phản động lợi dụng Phật giáo Hoà Hảo làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự ở miền Tây Nam Bộ trong giai đoạn từ năm 1975 đến nay.
- Về phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở nền tảng phương pháp luận Mác xít, đề tài đã sử dụng một số phương pháp cơ bản như: thống kê, phân tích tổng hợp… để làm rõ hơn và mô tả một cách chân thực về Phật giáo Hoà Hảo.
5. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm 3 chương 9 tiết: Ba chương đó là:
- Chương I: Lý luận chung về Tôn giáo.
- Chương II: Vài nét cơ bản về Phật giáo Hoà Hảo.
- Chương III: Tình hình hoạt động ảnh hưởng đến an ninh trật tự  của các đối tượng trong Phật giáo Hoà Hảo và công tác đấu tranh của ta từ năm 1975 đến nay.


  
Phần Nội dung
Chương I: Vài nét về Phật giáo Hoà Hảo
1. Nguồn gốc và sự ra đời của Phật giáo Hoà Hảo.
Ngay từ buổi đầu khai sáng nền đạo Phật giáo Hoà Hảo đã được Đức Huỳnh Giáo chủ tiếp thu kế thừa những nét đặc sắc trong các tín ngưỡng Tôn giáo khác nhau, tạo lập nên một Tôn giáo dân tộc với giáo lý: “học Phật, tu Nhân”.
Phật giáo Hoà Hảo là một trong sáu tôn giáo lớn đang được tự do hành đạo ở Việt Nam, là tôn giáo nội sinh lớn lên từ lòng dân tộc và luôn gắn liền với từng giai đoạn lịch sử dân tộc. Trải qua 66 năm giáo lý Phật giáo Hoà Hảo đã đang có mặt trong sinh hoạt xã hội Việt Nam và được nhận là tôn giáo có quan hệ mật thiết cùng người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng với cộng đồng người dân Việt Nam nói chung. Do vậy trước tiên ta tìm hiểu điều kiện cơ bản cho sự ra đời của Phật giáo Hoà Hảo.
1.1. Điều kiện ra đời của Phật giáo Hoà Hảo.
Như chúng ta biết Phật giáo Hoà Hảo ra đời  năm 1939, gắn chặt chẽ với vai trò sáng lập của ông Huỳnh Phú Sổ và phát triển chủ yếu ở miền Tây  Nam Bộ. vậy chúng ta lý giải vì sao Phật giáo Hoà Hảo gắn liền với miền Tây Nam Bộ?
Đầu thế kỷ XVII khi những người Việt đầu tiên khai phá, thì vùng đất đồng bằng sông Cửu Long còn hoang vu, đất đai tuy mầu mỡ, song rừng rậm bùn lầy, hổ, báo, rắn, trăn,lũ lụt, bệnh tật… luôn rình rập con người. Khác với đồng bằng Bắc Bộ, nơi có những con đê hàng trăm năm giữ cho  ruộng làng không đổi, nơi những  tổ chức những luật lệ đã hình thành từ bao đời gò ép con người, ở vùng đất này tất cả dường như bắt đầu.
Những lớp người di dân đầu tiên ấy, thoạt tiên là những anh lính cùng vợ con họ. Tiếp đó, là những kẻ tội đồ, những tù binh và những người nghèo khó hay những người  bị o ép đến mức phải rời bỏ quuê hương. Trải qua công cuộc khẩn hoang mang tính chất tự nhiên với bao gian lao vất vả chống lại  thiên nhiên, thú dữ, giữa những con người ấy và đời sống ấy  đã hình thành một tính cách Nam Bộ: giản dị đến mức đơn giản, thẳng thắn đến mức bốp chát, trọng nghĩa khí đến mức xả thân, ghét sự tính toán hơn thiệt, không ưa lý thuyết suông và trên hết là một tinh thần bất khuất trong yêu nước vảtong đấu tranh chống cường quyền. Đối với ho giàu nghèo không quan trọng là sống có đạo lý, mà đạo lý trước hết là sống có nghĩa với cha mẹ, anh em, bạn bè và đất nước.
Trong số họ, dần dần hình thành những người  ưu tú, họ nêu lên tấm gương có lối sống có tình nghĩa, có khả năng chiếu dân lập ấp, tổ chức khai khẩn đất đai, có uy tín trong việc giải quyết tranh chấp, có thể trị bệnh cứu người bằng thuốc Nam hay bằng bùa chú. Họ trở thành anh hai, tiền thân của nhiều ông đạo sau này. Luật lệ tổ chức nơi đất Bắc được thay thế bởi uy tín của những anh hai. Tính chất anh hai là một điều đáng lưu tâm khi lý giải những phong  trào quần chúng, kể cả những phong trào tôn giáo ở Nam Bộ.
Do vậy, không chỉ trống vắng về tổ chức, về luật lệ trên mảnh đất này còn trống vắng cả sự chăm sóc cho đời sống tâm linh. Các nhu cầu này không thể không đáp ứng, thế là một số anh Hai, những lãnh tụ di dân, của dân di cư phải kiêm nghiệm cả chức năng này. Một trong số họ  từng là nhà nho, thầy lang, nhà sư,  thầy địa lý, thầy phù thuỷ… họ được gọi là ông đạo. Có mẫu số chung giữa các ông đều là những người chiêu dân lập ấp, là những người biết trị bệnh cứu người . Tất cả các ông đều có cách sống làm cho mọi người xung quanh thấy cao siêu và tôn sùng… Một tay các ông đạo đó có ông Đoàn Minh Huyên – là một ông Đạo lớn hơn hết các ông Đạo – người đã gây nên cả một phong trào tôn giáo kéo dài, khi bùng lên , khi âm ỷ, mà đỉnh cao  của nó là Phật giáo Hoà Hảo.
Song nơi  đất Mẹ sinh ra Phật giáo Hoà Hảo đó là làng Hoà Hảo, là một làng thuộc quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc trước đây. Ngày nay thuộc địa giới  hành chính xã Phú Mỹ và một phần xã Tân Hoà huyện Phú Tân, tỉnh An Giang. Ngoài những nét chung của một làng miền Tây Nam Bộ, làng Hoà hảo còn có một số đặc điểm địa lý đáng chú ý khác: là một làng có ba bề sông nước gồm sông Tiền, sông Hậu, sông Vòm Nao (con sông nối liền Việt Nam – Campuchia (tính theo đường chim bay không đầy 30 km)). Từ xa xưa, nơi đây cùng với vùng Thất Sơn hợp thành “Châu Đốc Tân Cương” được coi là nơi  biên xa sôi, hiểm trở của miền Tây Nam Bộ. Làng Hoà hảo  là làng mới hình thành từ cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 theo cách thức chung của triều Nguyễn là mở mang các vùng dân cư nơi biên viễn và được ổn định vào thời  kỳ Minh Mạng.
* Về kinh tế: Vào đầu những năm 30, bắt nguồn từ chính sách  “Đại khai thác” của thựcdân Pháp sau chiến tranh thé giới lần thứ nhất Việt Nam bước vào cuộc khủng hoảng kinh tế nặng nề và kéo dài, vì là xứ nông nghiệp độc canh nhưng giá lúa hạ rất thấp chỉ còn phần ba, phần tư trong khi thuế vẫn giữu nguyên. Thợ, thầy thất nghiệp, nhân dân đói khổ cùng cực, cuộc sống tạm bợ qua ngày. Làng Hoà Hảo cùng không nằm ngoài số đó, song có lẽ là nơi “biến viễn” xa sôi nên ở đây có bịảnh hưởng nhưng không đến mức nặng nề. Như nhiều vùng khác của miền Tây Nam Bộ làng Hoà Hảo cũng là vùng thuần nông. Tuy nhiên, do đất thì chật mà con người thì đông, do vậy ở đây dần dần hình thành nghề thủ công vàcác hoạt động dịch vụ, nghề rèn nổi tiếng khắp miền tây cũng được ra đời… Có thể nói rằng, chờ cơ cấu  bàn nông, bàn công được bổ sung banừg thương nghiệp và dịch vụ với qui mô thi tứ  mà dân làng Hoà hảo có đời sống tương đối ổn định và khá hơn các vùng khác, đồng thời có điều kiện giao lưu văn hoá hơn các vùng khác, đồng thời có điều kiện giao lưu văn hoá và chịu tác động ảnh hưởng về xã hội những nơi khác nhiều hơn.
* Về chính trị – xã hội:
Đạo Hoà Hảo ra đời trong bối cảnh chiến tranh thế giới lần thứ hai vừa nổ ra. Lúc này ở Việt Nam thì Pháp và Nhật đang tranh giành sự ảnh hưởng, làm cho tình hình ở Việt Nam thuộc địa vốn đang căng thẳng lại càng căng thẳng thêm. Đồng thời, Nhà nước phong kiến Việt Nam và hệ tư tưởg phong kiến đang đứng trước bờ vực thẳm, thì Nhà nước bảo hộ ở Việt Nam lại tăng cường “sống gấp” trước cái chết gần kề. Hệ tư tưởng tư sản đã tỏ ra bất lực. Một số trí thức yêu nước vốn là học trò của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh cũng thực sự  tỏ ra bế tắc về đường lối. Và thời kỳ này thực dân Pháp vào  triều đình Huế tích cực đàn áp nên các hoạt động bị hạn chế, phong trào tạm thời đi vào thoái trào. Do vậy, nhân dân lao động phải đi tìm cho mình một chỗ dựa tinh thần. Chính vì thế, dù ở miền Tây Nam Bộ xa sôi, nơi biên viễn – Huỳnh Phú Sổ đứng rs khai đạo thì những người nông dân vốn thuần phác đã nhanh chóng tìm đến và tự nguyện làm tín đồ.
Bên cạnh đó, một vấn đề xã hội có liên quan đến sự ra đời của Phật giáo Hoà Hảo là phong trào “Chấn hưng Phật Giáo” mà theo lời  của giáo sư Trần văn Giàu rằng: Phật tử phê phán Phật Giáo suy đồi ở hai điểm chính là dốt và hư. Trong những năm 30, phong trào này có ý nghĩa “cải tà” vừa là mở đường cách tân cho Phật giáo. Chính những hoạt động đó của các “ông đạo” và quần chúng xã hội và đồng thời cũng là điều kiện cho các phái Phật giáo biến dạng ra đời. Có thể nói rằng vào thời kì này vùng đất miền Tây Nam Bộ là nơi an toàn cao độ, cho lực lượng chống đối trong đó có cả chống đối về mặt văn hoá mà không bị quần chúng cô lập. Vì vậy, vùng Thất Sơn  đã trở thành khu đất Thánh đào tạo những con người mộng làm cách mạng bằng cách tu luyện các pháp đạo. ý niệm Bứu sơn – Núi Báu là một  nỗi ám ảnh không rời những con người ở nơi đó.
Đặc điểm cơ bản nhất bao trùm nhất của địa  dư này là nơi có truyền thống sản sinh ra các loại tín ngưỡng tôn giáo bản địa, các dòng tiên tri trong thời kỳ từ thế kỷ XIX đến thế kỷ XX. Khởi đầu của dòng tiên tri Nam Kỳ Bửu Sơn Kỳ hương, đây là một loại tín ngưỡng mà về sâu được nhiều học giả xác nhận là “cha đẻ” của dạng Hoà Hảo. Giáo chủ của  Bửu Sơn Kỳ Hương là Đoàn MInh Huyên (1807 – 1856) tại làng Tòng Sơn, tổng An Tịnh, huyện Vĩnh An, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thạnh (Sađec) nay thuộc tỉnh An Giang.
Ông đi từng vùng này đến vùng khác trị bệnh, người dân tìm đến ông trị bệnh rất đông. Vừa trị bệnh vừa nói những lời nói khó hiểu có tính chất sấm truyền, vừa giảng đạo thuyết pháp, quy y cho mọi người . Mùa thu năm 1849 tín đồ theo ông  rất đông, mỗi người  được cấp một mảnh giấy chứng nhận trên đó đóng triện 4 chữ Bửu Sơn Kỳ Hương. Có thể xem năm 1849 là năm ra đời của tông phái này. Và ông Đoàn Minh Huyên được tôn sùng như Phật sống. Sự tập hợp quần chúng quanh ông đã gây nếnự longại cho chính quyền địa phương lúc bấy giờ. Do vậy, ông bị chính quyền buộc phải đến tu ở chùa Tây An (An Giang) ở đây ông tiếp tục truyền giảng, tín đồ tham gia ngày càng đông, họ tôn xưng ông là Phật Thầy Tây An. Lúc ông mất (12/8 Bính thìn 1856) qua 7 năm hành đạo, ông đã tạo lập một cơ sở xã hội vững chắc và rộng lớn ở miền Tây. ở đây có thể cho rằng: Chính công cuộc truyền đạo của ông do gắn liền với công cuộc chiêu dân lập ấp, với việc tổ chức cho công cuộc khai phá  đất đai, là một nguyên nhâ quan trọng nhất khiến cho Bửu Sơn Kỳ Hương dù có lúc thăng trầm song vẫn tồn tại dai dẳng. Tín đồ của ông không tin là ông chết, họ yin rằng ông bất tử , ông hcỉ đi tới miền cực lạc rồi sẽ có ngày ông trở về. Vì khi còn sống ông thường nói những câu mơ hồ về ngày ông  sẽ trở lại:
              Chừng nào gốc mục lên chồi
              Ta vưng rắc lệnh tái hồi trần gian
Điểm cần chú ý trong sự khác nhau giữa Bửu Sơn Kỳ Hương với Phật giáo truyền thống là việc ông Huyên thể hiện tư tưởng dân tộc trong giáo lý của đạo mình: “loài cầm thú còn biết tổ huống chi người nỡ bỏ từ ân” (giác mê của Phật Thầy) Nguyên Thuỷ “từ ân” của ông Huyên là: Ân trời Phật, ân Quân vương, ân cha mẹ, ân sư phụ; (chứ không hẳn “từ ân” được hiểu sau này của Phật giáo Hoà Hảo: ân tổ tiên, ân đất nước, ân tam bảo, âm đồng bào) Từ đó khi xây dựng giáo lý học phật, tu  nhân (học phật là noi gương Đức Phật tổ cùng các chư phật màtu hành) Điều cốt lõi là làm lành tránh dữ mà không cần khổ hạn hay thoát tục. Phương pháp tu hành chủ yếu là tĩnh tâm, tích cực làm công việc công đức  để đền đáp từ ân. Nghi lễ cũng rất đơn giản, thay cho việc tụng kinh niệm phật, ông Huyên cho thờ tấm trần điếu (màu đỏ điếu, trong khi đó tín ngưỡng truyền thống cũng như của phật giáo đại thừa dùng màu đỏ tươi tượng trưng cho thần linh) Sau này khi Huỳnh Phú Sổ xuất hiện đã thay màu đỏ điếu bằng màu đỏ già, màu giá trên tấm trần già.
* Về đặc điểm địa lý: Có nhiều  công trình nghiên cứu về sử học, dân tộc học, xã hội học đã xác định rằng: Xã hội nông dân miền Tây về lịch sử là một xã hội mới được định hình, người dân ở đây chủ yếu là từ các xứ sở xa đến, họ từ miền Trung và miền Đông Nam Bộ di cư đến từ cuối thế kỷ XVIII. Họlà những người nông dân chất phác giản dị trong điều kiện ít va chạm về mặt xã hội nên họ  có đức tín dễ tin  và khi đã tin thì rất chung thuỷ với niềm tin  của mình. Có thể nói, đây là điểm gặp nhau giữa đặc điểm tâm lý của những người “tân” tín đồ với giáo lý đơn giản dân dã của  đạo Hoà hảo và phát triển trong cộng đồng người dân Nam Bộ.
Trong luận án Phó tiến sĩ khoa học lịch sử: “Đời sống xã hội và tâm lý nông dân ở làng Hoà Hảo tỉnh An Giang trước và sau năm 1975. Mã số 50310 thành phố Hồ Chí Minh của PTS. Phạm Bích Hợp” Nhưng bù lại chính  chiều sâu tâm lý với việc vận dụng dị hoá các giáo lý đơn giản hoá các biểu tượng và ngôn ngữ tôn giáo, bám sát vào truyền thống bản địa… đã làm cho đạo Hoà Hảo được hưởng ứng rộng rãi và có tổ chức lâu bền trong đời sống tinh thần  của người nông dân Nam Bộ.
Đặc điểm tình hình của người dân Nam Bộ, họ dễ hoà đồng, dễ dung nạp, đặc biệt là ở những nơi vùng “biên viễn” xa sôi, vùng xa văn hoá Triều đình. Một mặt phái chịu thiệt thòi là  xa ánh sáng văn hoá, mặt khác họ lạíit chịu ảnh hưởng hệ thống tư tưởng, đạo đức của phong kiến cung đình. Chính vì vậy, họ dễ dàng tiếo nhận hệ tư tưởng của các ông đạo, không cần có sự lựa chọn. Và tất nhiên các yếu tố trên cũng chỉ là điều kiện vì sự ra đời của tôn giáo không xảy ra nêu như không có người khởi xướng. vậy chúng ta cùng timd hiểu sơ lược về người khởi đầu của đạo Hoà hảo.
1.2. Vài nét về giáo chủ Huỳnh Phú Sổ
Huỳnh Phú Sổ sinh ngày 15/01/1920 (21/11 Kỷ Mùi) tại làng Hoà Hảo quần tân Châu, tỉnh Châu Đốc (nay thuộc tỉnh An Giang) Cha ông là Hương cả Huỳnh Công Bộ, mẹ là bà Lê Thị Nhậm.
Huỳnh Phú Sổ là con thứ ba và là trưởng Nam, vì thế ông còn có cái tên khác như Tư Sển, Thầy Tư  Hoà hảo… Năm ông được sinh ra, lag khi những người yếu nước Việt Nam đang tìm con đường đấu tranh cho độc lập dân tộc. Các tôn giáo cổ truyền  đang gặp khó khăn, phải trải qua cuộc chuyển mình lớn. Đời sống nhân dân lao động cực kỳ khốn khổ sau cuộc đại chiến thế gới lần thứ nhất.
Thuở thiếu thời Tư hay ốm đau, yếu ớt, nên mặc dầu thông minh nhanh nhẹn, mặt mũi khôi ngô, học hành khá nhưng khi đỗ sơ học yếu lược, cậu đành bỏ học. Điều kiện gia đình khá giả nên cha cậu Tư mọi cách để chạychữa đưa cậu lên núi Tà Lơn ở biên giơí Camphuchí, và nên Thất Sơn chữa bệnh, vấn đề này được tác giả Tọ Cồn Đại Trường trong tác phẩm “Thần, người và đất Việt” đã viết: “Sống trên vùng đầy không khí huyền hoặc Kỳ bí của các ông đạo ta, đạo Miên, của bùa chú, ngồng ngãi… thì cậu Tư được ông Bà Hương Cả dắt lên Thất Sơn cho ông thầy Xom (đạo xom) núi Trà Sư chữa bệnh hay nhờ cậy một ông thấy Pháo cố ngồng ngãi Thổ xiêm từng lên núi Tà Sơn (dãy Bokor) cũng là điều kiện tự nhiên”.
Sự vhuyển biến lớn diễn ra trong tâm hồn của cậu, nhưng do tính trầm lặng do vậy người thân không nhận thấy gì. Những điều kiện cho sự hình thành một ông đạo mới dần dần hội tụ ở chàng trai 21 tuổi này là: Nhờ thuộc lòng nhiều thơ giảng của các lãnh tụ Bửu Sơn Kỳ Hương, cậu có thể nói thành thơ,khẩu khí có gì đấy tương tự nội dung cũng gần vậy, cũng giáo huấn người ta tu  nhân học Phật, cũng Từ Ân Hiếu Nghĩa và cùng tiên tri khó hiểu. Bên cạnh  đó ông cũng  được phác bài thuốc Nam để chữa bệnh.
Ngày 18/5 năm Ky mão 1939 ông Huỳnh Phú Sổ làm lễ thụ ký, xin đầu làm con Phật. Và ngày nay về sau được xem như là ngày sáng lập ra đạo Hoà Hảo.
Sau khi làm lễ, xin đầu làm con của Phật, người dân kéo nhau tới chiêm ngưỡng, nghe giảng, để chữa bệnh ngày càng đông, ảnh hưởng của ông kochỉ trong tỉnh mà còn lan rộng ra nhiều tỉnh khác khiến nhà cầm quyền Pháp lo ngại. Lúc bấy giờ tín đồ của ông ngày càng tăng lên họ tôn xùng ông như Phật sống và lấy tên ông làm teen môn phái mới: Phật giáo Hoà Hảo.
Ngày 12/04/1940 thực dân Pháp cho mời Huỳnh Phú Sổ lên Châu Đốc rồi sau đó chuyển ông về Sađic và giao cho mật thám theo dõi. Thời kỳ này ông đã viét 4 cuốn sấm thi với 2546 câu thơ sấm.
THáng 10/1942 hiến binh Nhật thấy có lợi trong việc giành giật ông Huỳnh Phú Sổ với Pháp. Cậu Tư  cũng nhận thấy thế của phát xít Nhật ở Đông Dương và ở Việt Nam, đồng thời Nhật cũng đã giúp ông điều kiện thuận lợi trong hoạt động tôn giáo và hoạt động  chính trị. Lập ra đảng chính trị “Việt nam phục quốc đồng minh hội” với chủ trương bài pháp chống Việt Minh. Lúc này ông chịu sự ảnh hưởng rất lớn từ Nhật.
Năm 1945 Huỳnh Phú Sổ liên tục lập ra 3 tổ chức chính trị đó là: “Việt nam độc lập vận động hội”, “Việt Nam phật giáo liên hiệp hội”, “mặt trận quốc gia thống nhất” và 2 lần  tổ chức cướp chính quyền nhưng đều thất bại.
Khi Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ 2 Huỳnh Phú Sổ tìm cách dựa vào Pháp để củng cố lực lượng chống Việt Minh, thực hiện  tham vọng “Vương quốc Hoà Hảo” Thành lập “Mặt trận quốc gia liên hiệp” gồm các đảng phái và tôn giáo. Sau khi bị tướng Nguyễn  Bình giải tán, ông đã nhận lời  tham gia Uye ban hành chính kháng chiến Nam Bộ với chức vụ là Uỷ viên đặc biệt.
Sau đó, ông Sổ lập ra mặt trận Quốc gia Dân chủ, tháng 9 năm 1946 ông lạicùng Nguyễn Bảo Toàn, Trần Văn Sâm, Trần Văn An lập ra đảng Việt Nam  dân chủ xã hội do ông làm thủ lĩnh. Thực chất đây là đảng của Phật giáo Hoà Hảo, tiếp đó tháng 2 năm 1947 lực lượng vũ trang Hoà Hảo đã bắt 400 Việt Minh vàgia, tại Giồng Bánh Lái. Ngày 16/04/1947 theo chương trình đã định, uỷ ban hoà giải đã họp tai trụ sở uỷ ban Long Xuyên ở Đốc Vàng. Vì  sự biến cố  ngày  15/4/1947 nên sau cuộc họp, ban hoà giải định tới nơi sảy ra để giải quyết thì  21h cùng ngày Huỳnh Phú Sổ đã dùng thuyền tón ra vàm Đốc Vàng, gặp bộ đội ta đang canh sát chặn lại, lực lượng bảo vệ ông sổ và bộ đội  ta bắn nhau; sau đó ông được bộ đội ta hộ tống giải về Phong Phú, do Bửu Vinh chỉ huy. Sau đó, Huỳnh Phú Sổ mất tích… và Lương Trọng Tường khai rằng ông Sổ chết tối 16/4/1947.
Kể từ đó đến nay, tín đò Hoà Hảo vẫn cho rằng cộng sản đã giết thầy. Song họ lại tin rằng: thầy chỉ tạm vắng mặt vãe có ngày thầy sẽ trở về.
1.3. Đạo Hoà Hảo ra đời như thế nào?
Trong thời hạn của tiểu luận, do vậy việc tiếp cận Hoà hảo với tư cách  là một tôn giáo theo 3 đặc trưng sau:
Một là: Thông qua tác giả là Huỳnh Phú Sổ, đạo Hoà Hảo đã có một hệ thống giáo lý  riêng, tức là những quan niệm riêng về tự nhiên, xã hội… Dù rằng trong đó có trộn lẫn, pha tạp của tư tưởng Phật, lão, Nho, cho rằng có sự kế thừa tư tưởng cốt lõi của Bửu Sơn Kỳ Hương, nhưng giáo lý Hoà Hảo vẫn lảiêng, không thể trùng khít với một đạonào. và nó được bắt đầu hình thnàh từ năm 1939 và đi vào ổn định vào năm 1945.
Hai là: Về mặt xã hội, hệ thống giáo lý đó được một cộng đồng nhất định chấp nhận, trong một thời gian ngắn đã có một lượng tín đò đông đảo tin theo, và đức tin đó bền vững cho đến tận  ngày nay. Trong hoạt động tôn giáo, cộng đồng tín đồ đó đã từng có một tổ chức hành chính đạo này thành giáo hội. Song theo giáo lý nguyên thuỷ, đây là một tôn giáo không có giáo hội, sự liên kết cộng đồng chỉ là sự liên kết bằng đức tin.
ở đây có một vấn đề thực tế đặt ra, đó là việc  Lê Quang Liêm nguyên hội trưởng của hệ phái Phật giáo Hoà Hảo đã nhiều năm nay liên tiếp gởi đơn thư lên các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta đòi” “tái phục hoạt động giáo hội Phật giáo Hoà Hảo”. Lý do mà ông Liêm đưa ra là: Tổ chức giáo hội vốn được đề cập trong sấm giảng vàđó có tiền lệ từ thời Huỳnh Phú Sổ giáo chủ. Song, bàng những chứng cớ do tư liệu của chính giáo hội để lại, đề tài với giáo lý, vừa gây nhiêũ nhưỡng về mặt xã hội, vừa để lại tiếng xấu cho nền đạo của Phật giáo Hoà Hảo mà thôi.
Ba là: Cộng đồng tín đồ Hoà Hảo cùng chung một nghi lễ, luật lệ thờ cúng riêng họ, không trộn lẫn với bất kỳ tôn giá nào khác. Nghi lễ được thực hành từ năm 1945 sau khi sáu quyển của Bộ: “sấm giảng thi văn toàn bộ ” ra đời  và duy trì ổn định đến nay.



1.1.1. Thời kỳ 1975 đến 1985.
Hoạt động chủ yếu của chúng trong thời kỳ này là vũ trang manh động, trắng trợn lợi dụng những yếu điểm của ta như chính quyền còn non trẻ, thiếu cán bộ, cơ sở quần chúng chưa vững chắc… mục tiêu của chúng ta muốn nhanh chóng khôi phục lại những gì đã mất.
+ Giai đoạn 1975 – 1080: ở An Giang, trong vòng 5 năm chúng đã thành lập 175 tổ chức, toán, cụm và trang đã gây ra hàng trăm vụ xâm hại An ninh quốc gia, mỗi toán có số lượng từ 60 – 100 tên, trang bị cả súng trung liên và cối 60 ly… Mặt khác, chúng còn tích cực nhen nhóm các tổ chức chính trị phản động. Sau khi bị ta đấu tranh depk bỏ, đầu những năm 80 chúng đã chuyển sang hướng hoạt động banừg hình thức bí mật, tăng cường  các biện pháp lôi kéo tín đồ, chuẩn bị lực lượng chờ thời cơ để nổi dậy chống phá.
Theo báo cáo tổng kết công tác chuyên đề về Phật giáo Hoà Hảo năm 1996 của công an các tỉnh như An Giang, Cần thơ, Thành phố Hồ Chí Minh và  cục A38 cho biết: từ năm 1975 đến năm 1980 bọn phản động lợi dụng Phật giáo Hoà Hảo đã thành lập ở An Giang 175 tổ chức, toán, cụm, vũ trang; Cần Thơ 51; Đồng Tháp 17; Vĩnh  Long 12; Kiên Giang 5 số này đã gây hơn 300 vụ, việc xâm phạm an ninh trật tự, gây cho ta thiệt hạito lớn về người và của. Điển hình như ở An Ging chúng ta đã phá hỏng một số cầu, 12 xe, làm 11 người chết và 56 người bị thương.
+ Giai đoạn 1981 – 1985: Bọn phản cách mạng trong Phật giáo Hoà Hảo đẩy mạnh hoạt động chiến tranh tâm lý, mê tín dị đoan để hù doạ khống chế tín đồ về mặt tư tưởng như: rải truyền đơn, tuyên truyền rỉ tai: “Minh vương xuất hiện”, “Rắn nổi”, “sói lở”, “Sao chổi xuất hiện”, “ếch nói”, “Mưa màu”, “Cồn tiên nổi”… phục hồi các tập tục cũ như búi tóc dài, mặc đồ đen, ăn chay trường, lôi kéo giành giật tín đồ, quần chúng không để họ ngẻ về phía cách mạng. Lúc này xu hướng lập lại các tổ chức hệ thống giáo hội, Đảng dân xã và Bảo an Phật giáo Hoà Hảo luôn gắn liền với việc tuyên truyền giáo lý, vận động quần chúng giữ đạo, chờ thời cơ sẽ có ngày “đổi đời”, “Thầy về”, nhằm tìm cách cột chặt quần chúng tín đồ vào thần quyền, giáo lý, vào các tổ chức mới phục hồi của chúng. Đặcbiệt là chúng đưa người vào các hoạt động trong các tổ chức từ thiện nhân đạo của ta, các tổ chức Đảng, chính quyền và đoàn thể quần chúng để phá hoại, làm lũng đoạn nội bộ, chia rẽ giữa Đảng, chính quyền với các tín đồ Phật giáo Hoà Hảo.
Vậy chúng ta có thể khẳng định rằng nếu như ở giai đoạn 1975 – 1980, các thế lực phản động lợi dụng Phật giáo Hoà Hảo ráo riết đẩy mạnh các hoạt động vũ trang, bạo loạn với  hình thức công khai trắng trợn thì ở giai đoạn 1981 – 1985 chúng đã chuyển vào hoạt động  bí mật và hoạt động của chúng gắn chặt với việc tranh giành, lôi  kéo quần chúng tín đồ, chuẩn bị lực lượng chính trị chờ thời cơ chống phá cách mạng Việt Nam.
1.1.2. Thời kỳ từ năm 1986 đến nay.
Các tín đồ Phật giáo Hoà Hảo – phần tử phản động đã lợi dụng những diễn biễn phức tạp của tình hình quốc tế và khu vực. Lợi dụng đường lối, chính sách đổi mới việc đề cao và mở rộng nền  dân chủ trong các lĩnh vực đời sống kinh tế – xã hội, các thế lực phản động lợi dụng Phật giáo Hoà Hảo đã chuyển sang hoạt động phát triển tôn giáo, đòi vỉtí hợp pháp của các tổ chức giáohội, chuẩn bị lực lượng chờ thời cơ cụ thể là:
+ Đòi phục hồi hệ thống tổ chức ban trị sự, đẩy mạnh các hoạt động hành hương, tập trung đông người vào các dịp lễ nhằm biểu dương lực lượng gây thanh thê. Có lần chúng đã tổ chức thành đoàn đi Hà Nội khiếu kiện, yêu sách đòi bỏ cơ sở vật chất hiện đang bị chính quyền quản lý.
+ Tuyên truyền trong tín đồ mối hậnthù với cộng sản: “Giết thầy, phá đạo”, dựng lên những câu chuyện hoang đường mê tín dị đoan để tác động tư tưởng tín đồ, đẩy mạnh hoạt động từ thiện với mục tiêu là lôi kéo, giành giật quần chúng tín đồ tạo hậu thuẫn về chính trị.
+ Chuẩn bị lực lượng ngầm bằng việc  tiếp tục hoạt động phục hồi các tổ chức như Đảng dân xã, Bảo an, Ban trị sự.
Vậy ở thời kỳ này, mặc dù số lượng vụ việc xảy ra không nhiều so với thời kỳ 1975 – 1985 nhưng hoạt động của bọn phản động lợi dụng Phật giáo Hoà Hảo trở nên tinh vi, xảo quyệt và nguy hiểm nhiều so với thời kỳ trước, bằng việc lợi dụng diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế thế giới và khu vực lợi dụng đổi mới và xu thế mở rộng dân chủ hoá trong nước để đòi phục hồi hệ thống tổ chức giáo hội, phát triển đạo, tạo chỗ dựa và làm hậu thuẫn cho bọn phản động, xây dựng lực lượng ngầm chờ thời cơ chiếm lại vị trí chính trị đã mất.
1.2. Phật giáo Hoà Hảo ở nước ngoài và hoạt động của các đối tượng lợi dụng Phật giáo Hoà Hảo lưu vong.
- Trước tiên ta tìm hiểu một số đặc điểm của Phật giáo Hoà Hảo lưu vong ở nước ngoài:
+ Các tổ chức Phật giáo Hoà Hảo lưuvong được hình thành trong một quá trình và bằng nhiều con đường khác nhau. Thời điểm mở đầu và nổi bật nhất của quá trình là từ năm 1975. Với luận điệu sẽ có một cuộc “tắm máu” trả thù sau giải phóng và với việc thựchiện “kế hoạch hậu chiến”, đế quốc Mỹ và các thế lực phản động lừa gạt, thúc ép người Việt Nam di tản  ra nước ngoài. Tín đồ và chức sắc phản động trong v cũng là một bộ phận trong  số đó di tản  ra nước ngoài. Bên cạnh đó từ năm 1975 đến nay, bằng các con đường như xuất cảnh trái phép, đi theo các chương trình 40, ODP, AC cùng với việc phát triển tín đồ ở nước ngoài làm tăng số lượng tín đồ Phật giáo Hoà Hảo lưu vong.
Năm 1986, với công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, mở rộng dân chủ, thực hiện đường lối đối ngoại mở rộng: “Đa phương hoá, đa dạng hoá với tinh thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới”. Những hoạt động nổi bật trong  thời kỳ này là đẩy mạnh hoạt động mở rộng, phát triển địa bàn, hình thành hệ thống tổ chức Phật giáo Hoà Hảo hải ngoại hòng xây dựng tổ chức có thực lực lớn mạnh, có vị trí và ảnh hưởng trong phạm vi quốc tế. Hiện nay, theo các tài liệu được biết, cho đến nay Phật giáo Hoà Hảo lưu vong có mặt ở một số nước của 4 châu: Châu á, châu Âu, châu Mỹ, châu úc… trong đó có 3 trung tâm lớn là Mỹ, Pháp và Anh. ở Mỹ trong 17 tiểu ban có tới 32 ban trị sự; Canađa có 1; tại Châu Âu gồm Đức, Pháp và Hà Lan có 6 bảntị; tại  8 bang của australiba đều có ban trị sự, đồng thời ở thủ đô Carbera có văn phòng đại diện của 8 ban trị sự địa phương. Tại 6 trại tỵ nạn người Việt Nam ở các nước Philippin, Malaysia, Inđônêsya và Thái Lam đều có ban trị sự; ở Nhật có 1 ban trị sự. Các ban trị sự ở các nước nói trên thì 3 ban trị sự ở Mỹ như Washington do Lê Thái Hoà làm hội trưởng có cơ quan ngôn luận là tờ “Đuốc từ bi”; Ban trị sự ở Cabiformia do Nguyễn Hùng Quyền làm hội trưởng, có cơ quan ngôn luận là tờ “Dân Hoà” và Ban trị sự ở Texas do Vũ Công Minh làm hội trưởng. Đây là tổ chức có ảnh hưởng và chi phối lớn đối với Phật giáo Hoà Hảo lưu vong.
- Về đường lối hoạt động của hệ thống ban trị sự Phật giáo Hoà Hảo hải ngoại hiện nay làtiếp tục củng cố kiện toàn các ban trị sự đã có và mở rộng đến các vùng, các địa phương ở nước ngoài. Thu hút các tín đồ Phật giáo Hoà Hảo lưu vong vào các tổ chức của giáo hội hải ngoại. Thông qua các tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Quốc, Uỷ ban nhân quyền của Liên Hiệp Quốc, các tổ chức phi chính phủ, tranh rhut sự ủng hộ của chính phủ Việt Nam cho Phật giáo Hoà Hảo trong nước có giáo hội và phục hồi  hoạt động như thời điểm trước năm 1975.
Song thực trạng của Phật giáo Hoà Hảo lưu vong hiện nay có tổ chức nhưng không có lực lượng và thực lực như họ mong muốn của họ. Vì Ban trị sự lập ra đều do mục đích cá nhân và phe nhóm, với sự đầu  cơ chính trị và trục lợi kinh tế nên thường xuyên mâu thuẫn dẫn đến đấu đá lẫn nhau và không thống nhất.
- Hoạt động của bọn phản động lợi dụng Phật giáo Hoà Hảo lưu vong chống phá cách mạng Việt Nam ở nước ngoài trong những năm qua thể hiện chủ yếu qua những đặc trưng cơ bản:
+ Tập hợp thu hút những phần tử phản động di tản ra nước ngoài để hình thành, củng cố tổ chức Phật giáo như trước năm 1975, thành lập các tổ chức mới nhằm giữ vững đội ngũ, bảo toàn lực lượng ở trong nước. Các tổ chức đó là đảng Dân xã do Lê Phước Sang cầm đầu lưu vong ở Mỹ “Hội đồng bảo Pháp”, do nhóm cựu sỹ quan Bảo an nắm giữ: “Hội đồng chiến sĩ Hoà Hảo dân xã”, tổ chức “Huỳnh Phú Sổ huynh đệ thế giới” ở Mỹ.
+ Liên minh, liên kết với các tổ chức tôn giáo, các tổ chức chính trị phản động Việt Nam lưu vong, bị bọn đế quốc và bọn phản động quốc tế lợi dụng hình thành các tổ chức chính trị tôn giáo để phối hợp hành động chống phá Việt Nam.
Với một số điển hình như: “Hội đồng Việt Nam cho một Việt Nam tự do” thành lập năm 1988 tại Mỹ do: Lê Phước Sang (nguyên Viện trưởng Đại học Phật giáo Hoà Hảo) làm chủ tịch, có Ban Chấp hành gồm 41 tín đồ đại diện. Tổ chức này đã phối hợp với “Uỷ ban Hoa Kỳ cho một nước Việt Nam tự do” có sự tham gia của một số chính khách của chính phủ Hoa Kỳ và chế độ Sài Gòn cũ, có văn phòng thường trực đặt cạnh cơ quan Liên Hợp Quốc với đủ tư cách  là quan sát viêm. “Uỷ ban chống đàn áp tôn giáo tại Việt Nam” thành lập năm 1994 tại Anh gồm đại diện của các tôn giáo Việt Nam lưu vong tại Anh, trong đó có Phật giáo Hoà Hảo và “Ban bảo trợ thương phế Việt Nam cộng hoà, cô nhi quả phụ và Phật giáo Hoà Hảo” do Lương Thị Nga (con gái Lương Trọng Tường) và Lê Thái Hoà (Hội trưởng Hội Phật giáo Hoà Hảo tại Hoa Kỳ) cầm đầu, tổ chức này còn quy tụ mốtố luật gia, tri thức Việt Nam lưu vong ở Pháp và một số nước Châu Âu  để chống cộng.
Năm 1994, Nguyễn Thành Long, Lê Thái Hoà đã phối hợp  với bọn phản động trong các tôn giáo  khác thành lập “Hội đồng hợp tác tôn giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ” nhằm hỗ trợ cho cuộc đấu tranh của người Việt Nam các nơi trong lĩnh vực tôn giáo.
Qua thực tiễn đấu tranh cho thấy bọn phản động đã lợi dụng Phật giáo Hoà Hảo trong nước và ngoài nước với các thế lực thù địch ở nước ngoài có quan hệ chặt chẽ với nhau để chống phá cách mạng nước ta. So với giai đoạn 1975 – 1985 thì thời gian gần đây sự cấu kết của bọn phản động Phật giáo Hoà Hảo ngày càng thể hiện rõ nét, thường xuyên tăng cường bằng nhiều con đường, hình thức khác nhau thông qua nhiều hoạt động với nhiều phương châm và thủ đoạn mới.
1.3. Những hoạt động tôn giáo của Phật giáo Hoà Hảo có ảnh hưởng  đến an ninh trật tự.
Từ năm 1986, thực hiện đường lối đổi mới đất nước cùng với mở rộng dân chủ, trong lĩnh vực tôn giáo Đảng và Nhà nước ta đã có những  văn bản đáp ứng kịp thời  yêu cầu của tình hình mới đang đặt ra  đó là Phật giáo Hoà Hảo đã có sự biến động và biến dạng nhanh chóng bằng phục hồi các sinh hoạt  cũ, phát sinh những hình thức mới, nảy sinh nhiều hình thức tôn giáo tự phát bằng những hành động nổi bật.
- Phục hồi các sinh hoạt tôn giáo mang tính tập thể ở gia đình và nơi thờ tự như  trước năm 1975… Tự thành lập hàng loạt các Ban, Hội niệm nằm rải rác ở các xã có đạo, lợi dụng các đám tang, cúng tuần, giỗ ở nhà các tín đồ để cầu nguyện, tụng niệm có khi lên tới vài trăm người thông qua đó để lôi kéo tập hợp quần chúng tuyên truyền giảng đạo và phát triển đạo trái phép. Lợi dụng các chùa chiền, đình, dinh có tổ chức lễ giỗ hợp pháp để lồng các sinh hoạt tôn giáo, biến những nơi đây thành cơ sở thờ phụng tôn giáo của mình và lợi dụng hoạt động từ thiện để tuyên truyền, củng cố, phát triển đạo và lôi kéo quần chúng như hàng năm vào dịp 18.05 âm lịch hoạt động diễn ra nhộn nhịp ở nhiều tỉnh An Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp và Vĩnh Long.
- Phương thức hoạt động của chúng là bí mật đi vận động tín đồ sau đó hợp đồng xe khách, qui định địa điểm tập kết rồi đưa người đi hành hương. Theo số liệu của công an ở các địa phương, trong năm năm (1990 - 1995) công an đã phát hiện 21 vụ vận động tổ chức tín đồ đi hành hương về đình với al hàng ngàn lượt người tham gia, gây ra những vấn đề bức xúc về mặt an ninh trật tự của cả một số vùng, nhiều địa phương phải phối hợp để giải quyết. Ngoài ra, chúng còn tuyên truyền chùa Phước Điền, Thới Sơn (Tịnh Biên – An Giang) là nơi Huỳnh Phú sẽ hoạt động lúc còn sống nhằm để rủ rê tín đồ “hành hương về cội nguồn”.
2. Hoạt động bảo đảm An ninh trật tự ở Phật giáo Hoà Hảo.
2.1 Cơ sở quản lý Nhà nước đối với Phật giáo Hoà Hảo và những vấn đề đặt ra:
- Nhà nước quản lý mọi mặt về đời sống xã hội, bằng pháp luật trong đó có “Quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo” ở Việt Nam ghi nhận ở điều 70 của luật hiến pháp 1992; Nghị định 68/HĐBT ngày 21/3/1939 và chỉ thị số 379/TTg ngày 19/4/1999 của chính phủ. Đây là cơ sở pháp lý bảo đảm  cho công tác quản lý về Tôn giáo ở Việt Nam.
- Công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo Phật giáo Hoà Hảo còn nguồn từ 3 sự kiện có liên quan đến quyết định của chính quyền địa phương, trở thành giá trị chung trong công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo đến với Phật giáo Hoà Hảo ở mọi địa bàn miền Tây Nam Bộ và thành phố Hồ Chí Minh đó là:
+ Vào những ngày đầu  mới giải phóng (1975), nhân việc tàn quân nguỵ, lính Bảo an dồn về thánh địa hô hào: “Tử  thủ với cộng sản” cùng với việc bọn phản động trong ban trị sự chôn dấu vũ khí tại trụ sở  thánh địa, chính quyền địa phương buộc Tổ Đình ra thông báo gải tán các cấp hành chính của Ban trị sự, đóng cửa các Toà độc giảng, hội uán.
+ Sau khi giáo hội bị giải tán, những người trong tổ đình buộc họ hàng, bà con với Huỳnh Phú Sổ tự nhận là trung tâm hành đạo. Nhưng sau vụ bê bối tài chính 1981, chính quyền tỉnh An Giang quyết định thu hẹp quyền lực của Tổ đình bằng việc yêu cầu chuyển Tổ đình thành phủ thờ của gia tộc họ Huỳnh.
+ Tiếp đó, đến nagỳ “Khai đạo” năm Nhâm tuất (18/5/1982) chính quyền tỉnh An Giang yêu cầu gia tộc họ Huỳnh ra thông báo cho tín đồ không được hành hương về Toỏ đình nhân ngày “khai đạo” như truyền thống, mà tổ chức cúng lễ tại gia đình.
Đến đây, mọi sinh hoạt tôn giáo chỉ được duy trì tại gia với tư cách  cá nhân. Những sinh hoạt tôn  giáo mang tính tập thể dù ở gia đình hay nơi thờ tự, kể cả việc hành hương cúng lễ ở Tổ đình đều trở thành bất hợp pháp.
- Thực trạng hoạt động quản lý Nhà nước về tôn giáo ở địa bàn Phật giáo Hoà Hảo từ năm 1975 đến nay có thể khái quát qua 2  giai đoạn sau:
+ Giai đoạn từ năm 1975 – 1985:
Công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo đối với Phật giáo Hoà Hảo luôn gắn liền với  các sự kiện nêu trên và dựa trên cơ sở  tinh thần chỉ thị 07/CT-TW tháng 07/1997 và Nghị quyết số 40/NQ-TW tháng 10/1981 của Ban bí thư Trung ương Đảng. Thời kỳ này thì công tác quản lý của Nhà nước về căn bản đáp ứng những yêu cầu đặt ra nhằm tước bỏ những yếu tố chính trị ra khỏi đạo, bảo đảm cho quần chúng tín đồ “tu tại gia, cúng lễ tại nhà”. Với khí thế ngày càng cao của những tháng ngày đất nước hoàn toàn thống nhất và trong điều kiện nền kinh tế tập trung, bao cấp kéo dài, với tư tưởng nóng vội duy ý chí, có tác động ảnh hưởng nhiều đến lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có cả lĩnh vực quản lý Nhà nước về tôn giáo, nên nôn nóng muốn xoá bỏ ngay Phật giáo Hoà Hảo.
+ Giai đoạn từ năm 1986 đến nay:
Đối với công tác đấu tranh chống bọn phản động lợi dụng Phật giáo Hoà Hảo, bài trừ mê tín dị đoan và các hủ tục lạc hậu đi liền với hoạt động tồn giáo ở hầu hết các địa phương có chung quan điểm, thống nhất vận dụng các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, văn bản của Nhà nước về tôn giáo làm phương tiện để tiến hành công tác quản lý Nhà nước có hiệu quả nhằm bảo đảm giữ vững an  ninh quốc gia và trật tự an ninh xã hội các địa bàn này.
Vậy công tác quản lý Nhà nước đối với Phật giáo Hoà Hảo từ năm 1986 đến nay còn có những tồn tại, chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới đòi hỏi, đồng thời cũng goị cho chúng ta phương hướng khắc phục nhằm đảm bảo công tác này đưa vào nề nếp.
 Trước tiên là công cụ và phương tiện quản lý chưa xác định rõ, đây là vấn đề quan trọng nhất và là yêu cầu bức xúc trong tình hình hiện nay, Phật giáo Hoà Hảo nếu là một tôn giáo phải được quản lý theo hệ thống văn bản chung về tôn giáo và những văn bản riêng đặc thù đối với nó.
 Công tác quản lý Nhà nước đối với Phật giáo Hoà Hảo trong thời  gian qua đã bộc lộ những thiếu xót, nhược điểm như sự thiếu thống nhất hoặc là chờ đợi ý kiến của cấp trên hoặc là mỗi địa phương thực hiện theo chủ trương, cách thức riêng của mình, xử lý công việc theo sự vụ, đối phó không dứt điểm, ngăn chặn được việc này, lúc này hoặc nơi này thì lại nảy sinh việc khác, lúc khác hoặc nơi khác.
 các sinh hoạt  tôn giáo thì phát triển theo tự phát nảy sinh rất nhiều vấn đề phứuc tạp về chính trị, kinh tế, văn hoá và đặc biệt là an ninh trật tự. Suy cho cùng, chủ yếu bắt đầu từ tình trạng chưa có công cụ, phương tiện Nhà nước chưa đủ và chưa mạnh (kiên quyết) để xử lý các vấn đề phức tạp mà trong quá trình phát triển của tôn giáo nảy sinh.
 Bên cạnh đó, trong thời gian qua chúng ta vẫn chưa có một đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước chuyên trách có đầy đủ năng lực, kinh ghiệm đi sâu vào lĩnh vực Phật giáo Hoà Hảo để kịp thời giải quyết và đề xuất những vấn đề nóng bỏng đặt ra trong thực tế.
2.2. Một số biện pháp được áp dụng trong phòng ngừa và đấu tranh Phật giáo Hoà Hảo.
- Biện pháp vận động quần chúng bảo vệ an ninh trật tự ở các địa bàn Phật giáo Hoà Hảo.
30 năm qu, công tác vận động quần chúng được tiến hành thường xuyên, phong trào an ninh trật tự luôn được  giữ vững, các thế lực thù địch từ chỗ hoạt động manh động, trắng trợn đến chỗ co cụm, rút vào hoạt động bí mật, nằm im chờ thời cơ. từ chỗ quần chúng tín đồ bị kìm kẹp, lừa gạt, bị khống chế về mặt tinh thần và tư tưởng đến chỗ quần chúng được giải phóng về mặt tinh thần, thoát khỏi sự ràng buộc của bọn phản động và làm chủ cuộc đời mình. Từ đó, góp phần đấu tranh, phòng ngừa, ngăn chặn những âm mưu, thủ đoạn, hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch…chống phá cách mạng ở địa bàn Phật giáo Hoà Hảo. Công tác vận động quần chúng trong những năm qua đã đem lại những kết quả và được ghi nhận ở 2 phương diẹen cơ bản sau:
+ Thứ nhất: nắm vững đường lối về công tác quần chúng của Đảng, đánh giá đúng bản chất của quần chúng  tín đồ, tin tưởng vào quần chúng, vận động lôi kéo hướng dẫn họ góp phần xây dựng quê hương đất nước, nâng cao đời sống vật chất tinh thần, hoà  hợp dân tộc, khơi dậy ở họ tình yêu đất nước, yêu chủ nghĩa xã hội, căm ghét bọn phản động lợi dụng tôn giáo để phản nước hại dân. Đồng thời trong quá trình thực hiện công tác  vận động quần chúng đã gắn liền với việc tháo gỡ những vướng mắc, những mặc cảm nặng nề còn đông trong tư tưởng tình cảm của tín đồ với cách mạng. Bên cạnh đó luôn tôn trọng sinh hoạt tín ngưỡng theo tôn chỉ hành đạo “Tu tại gia, cúng lễ tại nhà”. Làm cho tín đồ luôn bền vững tin ở chế độ mới. Đảng cộng sản Việt Nam – Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam “của dân, do dân, vì dân” hăng hái đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thật vậy, phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc luôn được đẩy mạnh và duy trì thường xuyên từ năm 1975 đến nay. Ví dụ như tại Cần Thơ, tính riêng năm 1986 quần chúng đã cung cấp cho chúng ta nhiều tin tức quan trọng, phục vụ công tác truy quét có kết quả, bắt 225 tên, thu 54 súng, 12 lựu đạn, 1000 viên đạn, trong đó có 4 tên ra hàng, nộp 4 súng.
+ Thứ hai: Quá trình vận động quần chúng bảo vệ Phật giáo Hoà Hảo tại các địa bàn Phật giáo Hoà Hảo gắn liền với việc củng cố hệ thống chính trị  cấp cơ sở bằng nhiều hình thức và nhiều cánh làm khác nhau.
Thật vậy, trong thực tế những năm qua, chúng ta đã chọn lọc  một số chức sắc cũ, tín đồ tiến bộ đưa họ vào các tổ chức đoàn thể xã hội, xây dựng họ thành lực lượng cốt cán, góp phần củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở. Song song đó, thì theo chức năng của mỗi ngành, mỗi cấp và các đoàn thể xã hội đều lồng những nội dung của phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc vào các hoạt động của điạ phương; đồng thời  với việc đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội cũng là quá trình giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ Phật giáo Hoà Hảo ở các khóm ấp… có đồng bào theo đạo.
vậy nhờ vào hoạt động nhiều chiều này, ơt nhiều địa phương quần chúng tín đồ không những nâng cao ý thức cảnh giác, mà còn tích cực tham gia tuần tra canh gác, đóng góp quỹ an ninh quốc phòng – bảo vệ trị an khóm, ấp, kịp thời cung  cấp nhiều tin tức tài liệu về các hoạt động phạm pháp cho các cơ quan chức năng xử lý chính xác, nhanh chóng và có hiệu quả.
- Từ năm 1986 đến nay, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước lấy kinh tế làm trọng điểm và động lực, nhưng đồng thời gắn đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, tiến hành trên cơ sở vững chắc của thành tựu trong đổi mới kinh tế và giữ vững ổn định chính trị. Công tác quản lý Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, và xã hội đã đạt được những thành tựu tolớn. Đội ngũ cán bộ với trình độ và kinh nghiệm quản lý không ngừng được nâng cao. Đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện và an ninh trật tự được giữ vững, ổn định. Quần chúng tín đồ ngày càng tin tưởng vào đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; hoạt động của bọn phản động lợi dụng Phật giáo Hoà Hảo không còn như trước mà đi vào thế thủ; lợi dụng chính sách đổi mới về công tác tôn giáo và dâm chủ, nhân quyền đang ngấm ngầm hoạt động bí mật hoặc nằm yên chờ đợi thời cơ. Đây là vấn đề mà chúng ta cần phải cảnh giác và luôn ở thế chủ động sẵn sàng đấu tranh chống lại các hành vi quấy rối an ninh trật tự của một bộ phận tín đồ phản động.
2.3. Công tác đấu tranh và xử lý
- Chủ trương, đối sách và kết quả đấu tranh trấn áp.
+ Trước hết phải khẳng định đây là cuộc đấu tranh diễn ra phức tạp, quyết liệt và đầy gian khổ. Bằng việc vận dụng linh hoạt, sáng tạo các biện pháp các hình thức đấu tranh; nhằm đập tan âm mưu của bọn phản động hòng giành lại vị trí đã mất, mơ tưởng xây dựng “Vương quốc đạo trị” giữ vững an ninh trật tự, bảo đảm các yêu cầu và nghiệp vụ cũng như đúng với pháp luật đã ban hành.
Đây là một quá trình phản ánh rất rõ nét chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước và kế hoạch - đối sách của ngành công an chống lại các thế lực thù địch lợi dụng Phật giáo Hoà Hảo. Thể hiện nổi bật là việc vận dụng các chiến thuật nghiệp vụ để đấu tranh ngăn chặn, kết hợp với các biện pháp tấn công chính trị, xử lý hành chính và hình sự.
+ Trong điều kiện đất nước ổn định, công cuộc đổi mới đạt được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực đời sống kinh tế, xã hội… Dân chủ được mở rộng thì các thế lực lợi dụng Phật giáo Hoà Hảo cấu kết chặt chẽ trong ngoài nước, chuyển vào hoạt động phục hồi tổ chức bí mật về mặt công khai là đòi hợp pháp hoá giá hội Phật giáo Hoà Hảo. Điều đó cho phép nhận định về âm mưu lâu dài và ảo tưởng của chúng về một “Vương quốc Phật giáo Hoà Hảo” đồng thời phản ánh thủ đoạn đấu tranh luôn gắn chặt với tôn giáo chính trị, lấy tôn giáo làm vỏ bọc, bình phong rồi lại mưu đồ biến Phật giáo Hoà Hảo thành một lực lượng chính trị từ cơ cấu tổ chức đến hoạt động.
Công tác đấu tranh chống hoạt động lợi dụng Phật giáo Hoà Hảo tuyên truyền chống chế độ xã hội chủ nghĩa cũng diễn ra thường xuyên liên tục trên các địa bàn, mặc dù đã làn tan rã nhiều tổ chức giáohộ phục hồi một cách thường xuyên, kiên quyết và có hiệu quả tại các địa phương. Trong những năm qua công tác đấu tranh thường tập trung vào những hành vi tuyên truyền, xuyên tạc đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo; khoét sâu mâu thuẫn chủ nghĩa xã hội với tôn giáo giưuã cách mạng với Phật giáo Hoà Hảo. Bằng việc lợi dụng những sơ hở thiếu sót của ta và những vấn đề dols để lại, với luận điệu đòi “dân chủ”, “nhân quyền” “Đa nguyên, đa Đảng” phối hợp chặt chẽ với chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản đọng ở nước ngoài tiến hành cuộc chiến tranh tâm lý ở các địa phương có tín đồ Phật giáo Hoà Hảo… Ngoài ra, công tác đấu tranh còn phát hiện loại bỏ những hoạt động sản xuất, tàng trữ, lưu hành, phổ biến tài liệu văn hoá phẩm có nội dung tuyên truyền chống chế độ.
- Xử lý các đối tượng vi phạm các quy định liên quan đến hoạt động tín ngưỡng, sinh hoạt tôn giáo bằng biện pháp hành chính.
+ Đây là biện pháp được sử dụng phổ biến và thường xuyên, không những có ý nghĩa và tác dụng tích cực trong đấu tranh ngăn ngừa vi phạm các quy định về hoạt động tôn giáo, mà còn tác động đến phòng ngừa đấu tranh với các thế lực thù địch lợi dụng Phật giáo Hoà Hảo để chống phá cách mạng – chống phá Nhà nước ta.
Trong quá trình sử dụng biện pháp hành chính ở địa phương thường có các yêu cầu đặt ra: Phải kiên quyết không để một vi phạm nào bị xử lý, vận dụng linh hoạt sáng tạo các hình thức xử lý; quán triệt tinh thần chủ động phối hợp chặt chẽ với ban tôn giáo, Mặt trận Tổ quốc các ngành có liên quan ở địa phương có sự cân nhắc thận trọng đến thái độ tâm lý, quyền tự do tín ngưỡng của quần chúng. Với các hình thức như: Buộc dỡ bỏ các am cốc, kiểm điểm công khai trước dân, thu giữ các đồ vật và phương tiện  sử dụng cho hoạt động trái phép, cảnh cáo giáo dục, viết cam kết, quản chế, trục xuấ khỏi địa phương,phạt vi cảnh… phạt tiền và tập trung cải tạo vào những năm 1990 trở về trước. Ví dụ như qua số liệu thống kê ở các tỉnh thì An Giang là tỉnh trọng điểm chiếm hơn 80% số vụ và đối tượng tham gia. Về  thời gian thì giai đoạn 1975 – 1986 chiếm 95% tổng số vụ của thời kỳ từ năm 1975 đến nay. Đó là lập ra nhiều tổ chức phản động nhất, có số lượng người tham gia đông nhất, hoạt động vũ trang manh động nhất và bị xử lý hình sự  nhiều nhất.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền các cấp, sự phối hợp chặt chẽ giữ các  ban, ngành, các đoàn thể quần chúng từ năm 1975 đến nay an ninh trật tự tại các địa phương luôn được giữ vững. Chúng ta đã đập tan mọi âm mưu chống phá của các thế lực và một số phần tử phản cách mạng, loại bỏ các tổ chức đạo trá hình hoặc bí mật do bọn chúng lợi dụng Phật giáo Hoà Hảo để nhằm chống phá cách mạng.
Song khi nhìn lại cả quá trình đấu tranh phải thừa nhận rằngL trong một thời gian dài (hơn 10 năm) chúng ta còn nặng về thiên hướng coi Phật giáo Hoà Hảo là một tổ chức của địch và đã xem nhẹ, thậm chí bỏ qua Phật giáo Hoà Hảo  là một tôn giáo. Cũng từ đó, trong thực tế chúng ta chưa định hình kịp thời về mặt chính sách, pháp luật nhất làtừ năm 1986 trở về trước. Và điều này đã gây nên không ít kho khăn, cản trở trong công tác đấu tranh, phòng ngừa chống các loại tôi phạm lợi dụng Phật giáo Hoà Hảo trong thời gian qua.
Đồng thời, trong những năm gần đây, nhờ có những quan tâm chỉ đạo và những chính sách thích hợp trên lĩnh vực tín ngưỡng tôn giáo cũng như việc thực hiện có hiệu quả những quan điểm chỉ đạo và chính sách đó, hầu hết các đồng bào có đạo đã hồ hởi, phấn khởi tham gia một cách tự giác vào quá trình đổi mới. Những thành tựu to lớn trên mọi mặt mà công cuộc đổi mới gần 20 năm qua đạt được có sự đóng góp không nhỏ của đồng bào có đạo.
Do vậy việc nắm vững những quan điểm chỉ đạo của Đảng, chính sách của Nhà nước trên lĩnh vực tôn giáo và nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước trênlĩnh vực này nhằm phát huy mạnh mẽ hơn nữa sự tham gia tích cực và tự giác của toàn dân trong đó có đồng bào theo đạo vào quá trình đổi mới là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách của nước ta hiện nay.
3. Một số kiến nghị và đề xuất
3.1. Những vấn đề đặt ra hiện nay
Hiện nay, theo Ban tôn giáo Chính phủ, Phật giáo Hoà Hảo có 1.232.572 tín đồ có mặt chủ yếu ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, trong đó tập trung  đông nhất ở các tỉnh: An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Cần Thơ.
Gần đây do chính sách tôn giáo đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, về mặt tổ chức Phật giáo Hoà Hảo đã tổ chức đại hội lần thứ II nhiệm kỳ (2004-2009) bầu ra một ban đại diện với 21 thành viên. Với sự kiện đó, mặc dù còn có một số ít người  của Phật giáo Hoà Hảo ở trong và ngoài nước hoài nghi thậm chí chống đối lại, còn hầu hết quần chúng tín đồ của đạo yên tâm hơn trong sinh hoạt và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Với tinh thần “hướng về tương lai, khép lại quá khứ” để xoá bỏ trị kiềm, cùng nhau đoàn kết xây dựng cuộc sống mới, tín đồ Phật giáo Hoà Hảo cùng với đồng bào không có tôn giáo và cùng với tín đồ tôn giáo khác, tham gia tích cực vào các phong trào sản xuất, kinh tế, xã hội xây dựng quê hương đất nước ngày càng giàu mạnh. Đồng thời với tinh thần ấy, cần quan tâm việc phổ biến chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng – Nhà nước ta cho tín đồ Phật giáo Hoà Hảo cũng như thực hiện chính sách văn hoá đối với tôn giáo trong khu vực dân cư để phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp, lành mạnh cũng như khắc phục những hạn chế trong hoạt động  của Phật giáo Hoà Hảo.
Bên canh đó, chúng ta hết sức chú ý và cảnh giác với chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động quốc tế, chúng đang và sẽ tiến hành chiến lược “Diễn biến hoà bình” đối với các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, trong đó Việt Nam là một trong đó. Bọn chúng lợi dụng tôn giáo nói chung và Phật giáo Hoà Hảo nói riêng là một bộ phận tất yếu trong chiến lược này. Đặc biệt là trong thời gian tới sẽ được tăng cường với nhiều hình thức và thủ đoạn mới, ngày một tinh vi hơn.
Từ những vấn đề đặt ra ở trên, xin nêu ra một số kiến nghị và đề xuất sau:
3.2. Kiến nghị và đề xuất.
3.2.1. Về vấn đề nhận thức bản chất của Phật giáo Hoà Hảo.
- Các cơ quan  của Đảng và Nhà nước trong quá trình thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình có liên quan đến các hoạt động tôn giáo của Phật giáo Hoà Hảo cần phải nhìn nhận rằng Phật giáo Hoà Hảo là một tôn giáo và đối xử với Phật giáo Hoà Hảo như những tôn giáo khác.
- Về nhu cầu tín ngưỡng của Phật giáo Hoà Hảo:
Để ***** chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống, các cơ quan chức năng phải thật sự tôn trọng nhu cầu tôn giáo của tín đồ. Nghĩa là phải biết phát hiện nhu cầu, nhìn nhận là chính đáng cho phép họ được tự do hoạt động và tạo điều kiện thuận lợi để họ thực hiện nhu cầu đó.
Và đến lúc chúng ta cần nhận thức rằng tôn giáo cũng là một hiện tượng văn hoá trong đời sống xã hội của con người. Do vậy, thái độ đối với tôn giáo nói chung đối với Phật giáo Hoà Hảo nói riêng cũng phải dựa trên nền tảng truyền thống văn hoá dân tộc, đường lốivh của Đảng và Nhà nước ta.
- Cách nhìn nhận đánh giá về các hoạt động phi tôn giáo của giáo hội Phật giáo Hoà Hảo.
+ Lịch sử phát triển của tôn giáo này cho thấy ở từng thời điểm khác nhau cũng bộc lộ những yếu điểm của nó, đó là sự tham gia vào các hoạt động phi tôn giáo.
+ Hoạt động chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá - xã hội của giáo hội Phật giáo Hoà Hảo thời kì 1939 – 1975 dù hợp pháp hay không đều là những  hoạt động không nhằm mục đích tôn giáo và suy cho cùng là vì mục đích chính trị, xây dựng “Vương quốc Phật giáo Hoà Hảo”.
+ Ngay cả trong “Sấm giảng  thi văn toàn bộ của Đức Huỳnh giáo chủ” thì hoạt động chính trị là một phần trong các hoạt động của Phật giáo Hoà Hảo. “Giáo lý giải thoát chúng sinh chẳng những được truyền bá ở thiền lâm mà còn phải thực hiện trên đường chính trị”.
Vậy – vấn đề đặt ra cho các cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo trong việc cho phép in ấn và xuất bản các sách  giáo lý.
       - Với tư cách là cá nhân – công dân họ có thể hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội… trong khuôn khổ luật pháp nhưng không được nhân danh Phật giáo Hoà Hảo, có chăng là chỉ vì mục tiêu tôn giáo mà thôi.
      - Hoạt động xâm phạm an ninh trật tự của những tín đồ Phật giáo Hoà Hảo từ năm 1975 đến nay là những hoạt động trái với pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, xử lý cần phân biệt rõ ràng động cơ mục đích để thoả mãn nhu cầu tôn giáo hoặc lợi dụng hoạt động tôn giáo để chống phá cách mạng, hoặc để mưu cầu lợi ích cá nhân.
3.2.2. Về công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động của Phật giáo Hoà Hảo.
- Quản lý về tổ chức của Phật giáo Hoà Hảo: Đó là cơ cấu tổ chức Phật giáo Hoà Hảo  và tư cách pháp nhân của tổ chức đó. Theo Nghị định số 91/NĐ-CP ngày 13/8/2003 của chính phủ qui định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Tôn giáo chính phủ, Nghị định số 26/1999/NĐ-CP ngày 19/4/1999 của chính phủ về các hoạt động tôn giáo… Vấn đề đặt ra ở đây là phải củng cố, xây dựng Ban trị Trung ương Phật giáo Hoà Hảo để họ điều hành sinh hoạt đạo theo hướng tích cực: đoàn kết, tuân thủ pháp luật, đóng góp nhiều nhất cho sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương.
- Một số nhu cầu trong sinh hoạt tôn giáo của tín đồ Phật giáo Hoà Hảo cần được nghiên cứu và giải quyết.
+ Tổ chức nghiên cứu xây dựng để sớm ban hành luật (hoặc pháp lệnh) về hoạt động tôn giáo.
+ Về ngày lễ đề nghị Nhà nước có văn bản tuyên bố lấy ngày 18/05 âm lịch  làngày “đại lễ” duy nhất trong năm của Phật giáo Hoà Hảo.
+ Việc in, phát hành cuốn sách giáo lý “Sầm giảng thi văn toàn bộ” phái  cấp  giấy phép, khi nội dung được chính phủ và các ban ngành có liên quan xét duyệt lại nhằm loại bỏ những  nội dung chính trị phản động. Cho phép in ảnh chân dung Huỳnh Phú Sổ và tấm Trần giá để thoả mãn nhu cầu thờ phụng của tín đồ.
+ Đối với việc phân tán tài liệu, băng ghi âm bình giảng giáo lý, đây là hoạt động vừa trái với pháp luật Nhà nước vừa không đúng với tinh thần cần thiết ngăn cấm  và loại bỏ.
+ Các hoạt động từ thiện của tín đồ Phật giáo Hoà Hảo, về mặt xã hội là đáng được hoan ngênh khích lệ. Tuy nhiên trong thực tế sự “Nhường cơm xẻ áo” đã bị lợi dụng, vì vậy hoạt động này cần được khuyến khích nhưng cũng phải được tổ chức và quản lý chặt chẽ.
+ Đối với nơi thờ tự:
 Tại gia đình, các tín đồ được xây dựng tu sửa, bài trí nơi thờ tự đúng theo giáo lý Phật giáo Hoà Hảo.
 Còn nơi thờ tự công cộng có 2 cơ sở đó là An Hoà tự và Tây An Tự (Chợ Mới – An Giang) là nơi lưu giữ  đầy đủ các biểu trưng thờ cúng và có người quản lý. Theo thời gia, có chỗ đã bị xuống cấp về cơ sở vật chất trong khi đó nhu cầu viếng thăm của  tín đồ vẫn còn. Do vậy, thiết nghĩ chính quyền địa phương cấp tỉnh  có thể công nhận là một di tích văn hoá trong hệ thống di tích văn hoá cổ truyền của địa phương. Và bên cạnh sự quản lý trông coi của đại diện tín đồ Phật giáo Hoà Hảo thì sự quản lý của chính quyền địa phương là rất cần thiết. Đồng thời, Nhà nước nên cho phép định kỳ tu bổ trên cơ sở hiện trạng cũ. Nếu có thể nên hỗ trợ một phần kinh phí, phần còn lại là huy động công đức của tín đồ, nhưng không giải quyết cho việc “xin xây chùa mới”.
Ngoài ra không đặt vấn đề trả lại các cơ sở cũ của Phật giáo Hoà Hảo như toà độc giảng (có 468 toà) trụ sở các Ban trị sự cũ và viện đại học Hoà hảo.
+ Vấn đề tổ đình: Đây chỉ thuần tuý là phủ thờ gia tộc ông Huỳnh Công Bộ. Vấn đề này đã được chính quyền tỉnh An Giang ra quyết định yêu cầu gia tộc này thực hiện theo đúng tinh thần chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
3.2.3. Về công tác phòng ngừ và đấu tranh chống phản động lợi dụng Phật giáo Hoà Hảo.
Phòng ngừa và đấu tranh chống phản động lợi dụng Phật giáo Hoà Hảo là một trong những hoạt động cụ thể của công an nhân dân, nhằm thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về Phật giáo Hoà Hảo trên lĩnh vực và địa bàn Phật giáo Hoà Hảo.
- Công tác phòng ngừa được xác định tập trung giải quyết một số yêu cầu sau:
+ Một là: Đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội nâng cao đời sống vật chất tinh thần của quần chúng tín đồ vì sự ổn định và phát triển mọi mặt của đời sống xã hội là nền tảng vững chắc của An ninh quốc gia.
+ Hai là: Tăng cường củng cố hệ thống chính trị cơ sở, chú trọng phát triển đội ngũ cán bộ là tín đồ Phật giáo Hoà Hảo, xây dựng lực lượng chuyên sâu về Phật giáo Hoà Hảo (Hiện đảng viên là tín đồ Phật giáo Hoà Hảo hơn 1.117 người, chiếm hơn 0,08% tổng số tín đồ. Riêng ở An Giang là 902).
+ Ba là: Khắc phục những cơ sở thiếu sót, đặc biệt là trong việc thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ở địa bàn có Phật giáo Hoà Hảo.
+ Bốn là: Quan tâm giải quyết thoả đáng những nhu cầu hợp lý, chính đáng về tín ngưỡng tôn giáo của quần chúng tín đồ, lôi cuốn họ vào các hoạt động xã hội và làm cho họ ngày càng gắn bó hơn với sự nghiệp cách mạng.
+ Năm là: Đẩy mạnh công tác quần chúng  bảo vệ Phật giáo Hoà Hảo tại các  địa bàn Phật giáo Hoà Hảo.
+ Sáu là: Tranh thủ lôi kéo, phân hoá số chức sắc cũ và những người có uy tín trong Phật giáo Hoà Hảo.
- Về công tác đấu tranh.
+ Đối với hoạt động nhen nhóm tổ chức phản cách mạng cần sử dụng tổng hợp các biện pháp, chiến thuật nghiệp vụ để chủ động ngăn chặn  đấu tranh thực hiện “Bóp chết từ trong trứng” Chú ý cảnh giác cao những hoạt động  liều lĩnh, manh động, phá hoại, gây bạo loạn, tạo điểm nóng.
+ Sử dụng linh hoạt các hình thức tấn công chính trị và xử lý hành chính kết hợp chặt chẽ với hình thức xử lý hình sự với mục tiêu giữ  yên lòng dân, giữ nghiêm phéo nước, giữ vững ổn định chính trị xã hội.
+ Công an địa phương phải cd phương an và đối sách đấu tranh cụ thể nhằm đảm bảo an ninh trật tự  ở địa bàn Phật giáo Hoà Hảo.
3.3. Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
3.3.1. Phương hướng
* Thường xuyên tổng kết việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác tôn giáo trong đó có cả Phật giáo Hoà Hảo. Tăng cường nghiên cứu cơ bản, tổng kết thực tiễn góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách trước mắt và lâu dài đối với Phật giáo Hoà Hảo. Đặc biệt là phải nắm vững quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin  và tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo.
* Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu quả quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực tôn giáo. Đồng thời tăng cường vai trò của Mặt trận các cấp trong công tác vận động  tín đồ và các chức săcơ sở tôn giáo.
* Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo, đặcbiệt là tôn giáo Phật giáo Hoà Hảo. Song vấn đề kiện toàn bộ máy làm công tác tôn giáo các cấp là vấn đề hết sức cần thiết.
3.3.2. Các giải pháp cụthể
Từ những phương hướng cơ bản trên thì vấn đề Phật giáo Hoà Hảo ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long cần có các giải pháp chủ yếu sau.
- Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của hệ thống chính trị và tàon xã hội về vấn đề tôn giáo mà cụthể là Phật giáo Hoà Hảo.
+ Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các quan điểm,chủ trương chính sách về tôn giáo của Đảng và Nhà nước trong toàn thể cán bộ, đảng viên, nhân dân, nhất là các chức sắc, chức việc các tín đồ tôn giáo.
+ Giáo dục truyền thống yêu nước bảo vệ độc lập vàbảo vệ Tổ quốc làm cho Phật giáo Hoà Hảo – tôn giáo gắn chặt với dân tộc, với đất nước với chủ nghĩa xã hội, hăng hái thi đua xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
+ Giữ gìn và phát huy truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh và nhớ ơn những người có công với Tổ quốc, dân tộc và nhân dân. Tôn trọng tín ngưỡng truyền thống tạo ra sự đồng thuận tạo cơ sở để đấu tranh chống tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, lợi dụng tôn giáo để làm hại đến lợi ích của Tổ quốc, dân tộc và nhân dân.
- Tăng cường công tác vận động quần chúng  xây dựng lực lượng chính trị ở cơ sở.
- Tăng cường công tác tổ chức cán bộ làm công tác tôn giáo.
Vậy việc thực hiện nghiêm túc những quan điểm chỉ đạo chủ trương giải pháp sẽ góp phần giải quyết có hiệu quả vấn đề tôn giáo ở nước ta hiện nay. Mà Phật giáo Hoà Hảo không nằm ngoài dòng chảy của đất nước. Vì mục tiêu: “Xã hội công bằng dân chủ, văn minh” xây dựng Nhà nước thực sự: Của dân, do dân và vì dân.




Phần kết luận
Nghiên cứu về Phật giáo Hoà Hảo là một vấn đề rộng lớn và phức tạp, đồng thời gây ra nhiều tranh cãi. Những vấn đề này không những chịu sự chi phối bởi một số thực trạng nêu trên mà còn là vấn đề lâu nay chưa được tập trung nghiên cứu một cách cơ bản và có hệ thống. Đề tài: “Một số vấn đề về Phật giáo Hoà Hảo vạ ảnh hưởng  của Phật giáo Hoà Hảo đến hoạt động an ninh trật tự ở miền Tây Nam Bộ trong giai đoạn từ năm 1975 đến nay” phần nào rõ hơn lý luận chung về tôn giáo, bản chất, nguồn gốc phát sinh, phát triển, lịch sử tồn tại và thực trạng hiện nay của Phật giáo Hoà Hảo góp phần nhận thức  đầy đủ, toàn diện về Phật giáo Hoà Hảo nhìn ở góc độ an ninh trật tự của các phần tử lợi dụng Phật giáo Hoà Hảo và công tác đấu tranh của ta từ năm 1975 đến nay. Đồng thời nêu  ra một số quan điểm cơ bản khi nhìn nhận, đánh giá nhận thức về v và chỉ đạo công cuộc đấu tranh chống các thế lực lợidụng Phật giáo Hoà Hảo bảo vệ an ninh quốc gia, đặc biệt là âm mưu “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.
Song thưchủ nghĩa tiễn gần 20 năm đổi mới vừa qua đã mang lại cho Đảng ta nhiều nhận thức sâu sắc một trong những số đó là: đổi mới là sự nghiệp của dân, do dâm và vì dân. Để công cuộc đổi mới thành công phải động viên được mọi tầng lớp nhân dân tham gia. Tính từ tháng 5/1999 đến tháng 6/2004 tín đồ Phật giáo Hoà Hảo đã tự nguyện tham gia có hiệu quả cao trong công cuộc tái hoạt động từ thiện xã hội với những con số đáng trân trọng như: Xây mới và sửa chữa được 403 cây cầu nông thôn với kinh phí hơn 2,2 tỷ đồng; sửa chữa và nân cấp 250 km đường bộ với kinh phí hơn 1,1, tỷ đồng, làm mới và sửa chữa được 3.114 căn nhà tình thương tổng giá trị gần 4 tỷ đồng, quyên góp 315 tấn gạo và 3,7 tỷ đồng tổ chức cứu trợ cho các vùng bị lũ lụt… Cùng với các hoạt động từ thiện xã hội thời gian qua tín đồ Phật giáo Hoà Hảo đã nêu cao trách nhiệm công dân và hoạt động theo pháp luật, kịp thời đấu tranh với những hoạt động gây chia rẽ đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, góp phần giữ vững ổn định chính trị, xây dựng cuộc sống mới. “Tốt đời đẹp đạo” Thắp sáng lên “ngọn đuốc từ bi chí thiện” thực hiện theo lời dạy của Đức Huỳnh giáo chủ là:
Thương yêu nhau như con một cha.
                      Dìu dắt nhau vào con đường đạo đức
Thật vậy, công cuộc đổi mới đất nước chúng ta tiếp tục giành được những thành quả to lớn, tạo nên thế là lực mới trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để hoà cùng sự nghiệp của toàn dân thiết nghĩ Ban trị sự Trung ương Phật giáo Hoà Hảo cần tăng cường củng cốm kiện toàn tổ chức các Ban trị sự cơ sở, đại diện các tỉnh, thành phố triển khai thực hiện chương trình  đạo sự đạt kết quả tốt, đem lại lợi ích cho Tổ quốc và đồng bào đặc biệt là thực hiện  lời dạy của Đức Huynh giáo chủ là “Học phật tu nhân” động viên tín đồ phát huy truyền thống tốt đẹp của đạo trong công tác từ thiện – xã hội. Bên cạnh đó phải hết sức cảnh giác ngăn chặn kịp thời các biểu hiện tiêu cực của các phần tử cực đoan, lợi dụng Phật giáo Hoà Hảo hoạt động vi phạm pháp luật.
Hôm nay chúng ta hoàn toàn có cơ sở tin tưởng vào các hoạt động  “phụng đạo yêu ns” của Phật giáo Hoà Hảo sẽ đạt thành tựu to lớn hơn để cùng toàn dân phấn đấu vì mục tiêu: “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ  văn minh”.
Sau cùng là em muốn trình bày một cách toàn diện và nghiên cứu sâu về Phật giáo Hoà Hảo nhưng kiến thức và khả năng còn hạn chế. Do vậy, e, rất mong được quí thầy cô và các bạn đóng góp và bổ sung để đề tài  được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!


(có những người vô danh làm nên lịch sử)