Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ 1986 – 2004

07:50 |

Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ 1986 – 2004

Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ 1986 – 2004

Mở đầu
Đối ngoại là một lĩnh vực rất cơ bản của một quốc gia, là chiếc cầu nối giữa dân tộc và nhân loại, giữa đất nước và thế giới. Hoạt động đối ngoại không chỉ thể hiện ở tài năng, vị thế của một quốc gia trên trường quốc tế, mà còn hàm chứa trong đó cả yếu tố văn hóa truyền thống của dân tộc.
Ngày nay, trước xu thế khách quan của toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ và nhanh chóng, hoạt động đối ngoại ngày càng được mở rộng, vai trò và vị trí của nó càng trở nên quan trọng trong chiến lược quan hệ quốc tế giữa các quốc gia. Không có một quốc gia nào không quan tâm đến chiến lược đối ngoại.
Đối với nước ta, trong thời chiến cũng như trong thời bình, Đảng ta đều coi trọng công tác đối ngoại, xem chính sách đối ngoại là một bộ phận không thể thiếu trong đường lối cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986), Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, trong đó có đổi mới đường lối đối ngoại của Đảng, công tác đối ngoại của Việt Nam đã mở ra một bước ngoặt mới, hoạt động đối ngoại được tăng cường và mở rộng hơn. Với đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng, hoạt động đối ngoại của Việt Nam có hiệu quả hơn,  Việt Nam có quan hệ ngoại giao với nhiều nước trên thế giới, bạn bè thế giới hiểu rõ hơn về đất nước và con người Việt Nam. Vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. 
Để góp phần vào việc nghiên cứu đường lối đối ngoại của Đảng nói chung, trong phạm vi tiểu luận này sẽ đi sâu nghiên cứu: Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ 1986 – 2004.

Nội dung
I. Đặc điểm tình hình thế giới và trong nước tác động đến việc đổi mới đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam.
1- Đặc điểm tình hình thế giới:
Từ giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp và chứa đựng nhiều yếu tố biến động khó lường. Đặc biệt, sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã tác động mạnh mẽ đến sự thay đổi cục diện thế giới và quan hệ quốc tế. Trật tự thế giới mới được hình thành với xu hướng đa cực hóa chính trị thay cho trật tự thế giới hai cực đối lập (hai phe xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa) do Liên Xô và Mỹ đứng đầu bị tan rã. Thế giới xuất hiện những đặc điểm mới đòi hỏi các quốc gia, nhất là các nước vừa và nhỏ phải điều chỉnh chính sách đối ngoại để tìm kiếm con đường phát triển và hội nhập quốc tế có lợi nhất cho quốc gia, dân tộc mình. Những đặc điểm mới của tình hình thế giới, đó là: 
Thứ nhất, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ, có bước tiến nhảy vọt đã tác động đến tất cả các quốc gia, dân tộc. Với những bước tiến khổng lồ của điện tử, tin học, mạng Internet trong lĩnh vực công nghệ thông tin, sự đột biến về gien trong công nghệ sinh học, những thành tựu của công nghệ vật liệu mới… đã đưa loài người từ nền văn minh công nghiệp chuyển sang thời kỳ mới của nền văn minh tin học. Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại trên thế giới đã tạo ra thời cơ và thách thức đối với mỗi quốc gia trong việc tiếp cận, áp dụng những thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại để phát triển vươn lên, hay bị tụt hậu về kinh tế.
Thứ hai, toàn càu hóa kinh tế là một xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh.
Xu thế toàn cầu hóa hình thành từ đầu thế kỷ XX và được đẩy mạnh trong hai thập kỷ cuối của thế kỷ này. Chắc chắn nó sẽ tiếp tục diễn ra mạnh mẽ hơn nữa trong thế kỷ XXI. Toàn cầu hóa là một quá trình mà thông qua đó thị trường và sản xuất ở nhiều nước khác nhau đang ngày càng trở nên phụ thuộc lẫn nhau.
Toàn cầu hóa là hệ quả tất yếu của sự phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đặc biệt là sự bùng nổ của công nghệ thông tin. Toàn cầu hóa trước hết là sự biểu hiện của xã hội hóa cao độ lực lượng sản xuất. Toàn cầu hóa đồng thời là sự phát triển tất yếu theo chiều rộng và chiều sâu của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, mặc dù không phải tất cả các nước tham gia toàn cầu hóa đều là những nước tư bản. Do vậy, chấn tâm của toàn cầu hóa là các nước tư bản phát triển, xứ sở của phần lớn các công ty xuyên quốc gia trên thế giới.
Mặt khác, để tồn tại và phát triển, mỗi quốc gia đều quan tâm đến lợi ích dân tộc mình và kịp thời nắm bắt chiều hướng phát triển của thế giới trong bối cảnh kết thúc chiến tranh lạnh, không còn hai phe (xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa ) trong quan hệ quốc tế. Xu thế hợp tác và đấu tranh vì mục tiêu hòa bình, ổn định và phát triển trong quan hệ quốc tế được đặt ra. Các quốc gia đều coi chiến lược mở cửa với bên ngoài là một trong những động lực chủ yếu để phát triển kinh tế. Nhu cầu liên kết, hợp tác để phát triển ngày càng gia tăng. Điều đó đã thúc đẩy nhanh chóng và mạnh mẽ quá trình toàn cầu hóa.
Tuy nhiên, toàn cầu hóa là một quá trình phức tạp đầy mâu thuẩn, chứa đựng cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực, cả thời cơ và thách thức đối với các quốc gia, trong đó có các nước đang phát triển, chậm phát triển chịu nhiều thách thức gay gắt hơn cả.
Toàn cầu hóa có tác dụng tích cực trong việc thúc đẩy xu thế hòa bình, hợp tác để phát triển, tháo dỡ các rào cản đối với nền kinh tế thị trường, tự do hóa thương mại, làm cho giao lưu kinh tế diễn ra mạnh mẽ nhanh chóng. Toàn cầu hóa tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt buộc các nước phải có tư duy năng động, có cơ chế quản lý, bộ máy quản lý hoạt động có hiệu quả. Toàn cầu hóa và cách mạng thông tin tạo điều kiện thuận lợi để các quốc gia tiếp cận nhanh chóng những thành tựu văn hoá, khoa học, công nghệ của loài người, đồng thời có điều kiện đóng góp tích cực vào sự phát triển của văn minh nhân loại. Toàn cầu hóa còn làm cho các quốc gia quan tâm hơn các vấn đề toàn cầu, đòi hỏi phải có sự liên kết, hợp tác giữa các quốc gia không phân biệt chế độ chính trị để giải quyết. Nó cũng tạo ra một chủ thể quốc tế mới chống mặt trái của toàn cầu hóa và lôi kéo đông đảo các quốc gia, dân tộc chống lại sự phân hóa giàu nghèo, chống sự áp đặt phi lý của các cường quốc kinh tế và các công ty xuyên quốc gia.
Song, bên cạnh những tác dụng tích cực, toàn cầu hóa đã tạo ra những thành tựu và nguy cơ không nhỏ đối với các nước, nhất là các nước đang phát triển. Toàn cầu hóa làm tăng tính phụ thuộc của các nước đang phát triển vào các nước lớn về vốn, công nghệ và thị trường. Toàn cầu hóa kinh tế có tác động trực tiếp đến lĩnh vực chính trị, đến an ninh quốc gia. Nó tạo ra nguy cơ các nước đang phát triển bị lệ thuộc về kinh tế, từ đó sẽ dẫn đến lệ thuộc về chính trị, làm nguy hại đến chủ quyền và an ninh quốc gia. 
Nghiêm trọng nhất trong các vấn đề toàn cầu là nguy cơ khủng hoảng toàn cầu về môi trường, sinh thái đe doạ sự sống trên trái đất đang đến gần. Hiểm họa môi trường gia tăng với sự bùng nổ về dân số đang là vấn đề xã hội của toàn nhân loại chứ không phải chỉ một quốc gia nào.
Trước xu thế toàn cầu hóa hiện nay, ở các nước đang phát triển diễn ra ba xu hướng: một là, cường điệu hóa mặt tích cực của toàn cầu hóa, coi nó là liều thuôc vạn năng cho sự phát triển của quốc gia. Hai là, chỉ nhìn thấy mặt tiêu cực, khó khăn, thách thức, từ đó tìm cách né tránh, quay lưng lại với toàn cầu hóa. Ba là, chủ động hội nhập trên cơ sở nhận thức sâu sắc những tác động tích cực của toàn cầu hóa cùng những tác động tiêu cực của nó để tìm cách hạn chế.
Thực tế cho thấy, các nước muốn tránh khỏi nguy cơ bị biệt lập, tụt hậu, kém phát triển thì phải tích cực, chủ động tham gia hội nhập khu vực và quốc tế, đồng thời phải có bản lĩnh cân nhắc một cách cẩn trọng các yếu tố bất lợi để vượt qua.
Thứ ba, tình hình thế giới còn nhiều biến động, các cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc vẫn liên tiếp xãy ra. Tuy có giảm hơn so với thời kỳ chiến tranh lạnh (nếu như trong thời kỳ chiến tranh lạnh mỗi năm trung bình có 43 cuộc xung đột trên toàn thế giới thì từ khi kết thúc chiến tranh lạnh mỗi năm trên thế giới có khoảng 13 cuộc xung đột), nhưng các cuộc xung đột về dân tộc, về sắc tộc vẫn tiếp tục diễn ra mang tính chất gay gắt, quyết liệt và sâu sắc hơn. Các nước lớn lợi dụng cái gọi là “tự do, dân chủ, nhân quyền”, đứng đầu là Mỹ đã trực tiếp hoặc gián tiếp can thiệp vào công việc nội bộ của nhiều quốc gia. Tình trạng bạo loạn lật đổ vẫn là mối đe dọa của các quốc gia, dân tộc. Nguy cơ bùng nổ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi, song chủ nghĩa đế quốc vẫn chưa từ bỏ chạy đua vũ trang.
Tuy nhiên, sau chiến tranh lạnh, các nước đã đổi mới tư duy về quan niệm sức mạnh và vị thế của quốc gia. Thay thế cách đánh giá cũ, chủ yếu dựa vào sức mạnh quân sự là chính bằng cách đánh giá tổng hợp, toàn diện hơn, trong đó nhấn mạnh sức mạnh kinh tế và khoa học, công nghệ là yếu tố hàng đầu. Từ đó, đã biến cuộc chạy đua vũ trang giữa các quốc gia thành cuộc cạnh tranh về kinh tế, hình thành xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển giữa các quốc gia.
Thứ tư, các nước lớn đóng vai trò chi phối các mối quan hệ trên thế giới. Quan hệ giữa các nước lớn tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của quan hệ quốc tế đương đại. Đó là các cường quốc về kinh tế, khoa học – công nghệ, quân sự và là ủy viên thường trực của Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc, bao gồm các nước: Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc, Đức, Italia, Nhật Bản, ấn Độ. Các nước này có một số điểm chung trong chống khủng bố, chống sản xuất vũ khí hủy diệt, chống đói nghèo, bệnh tật và suy thoái kinh tế; nhưng cũng có những điểm bất đồng trong quan hệ kinh tế thương mại, bảo vệ môi trường sinh thái… Các nước vừa và nhỏ quan hệ với các nước lớn sẽ mở ra triển vọng quan hệ với các nước khác trên thế giới.
Với những đặc điểm mới của tình hình thế giới đòi hỏi các quốc gia phải hết sức tỉnh táo khi lựa chọn con đường mở cửa, hội nhập quốc tế. Phải bảo đảm những vấn đề có tính nguyên tắc, có tính chiến lược, song lại phải hết sức mềm dẻo, uyển chuyển trong sách lược khi xây dựng đường lối đối ngoại đổi mới vì một thế giới hòa bình, vì sự ổn định và phát triển bền vững.
2- Đặc điểm tình hình trong nước:
Sau khi đất nước được hòa bình thống nhất, cả nước tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, định hướng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, thì các thế lực thù địch, đứng đầu là đế quốc Mỹ thực hiện việc bao vây, cấm vận đối với nước ta. Khi sự kiện Campuchia xảy ra, chúng lợi dụng cái gọi là “vấn đề Campuchia” để cô lập Việt Nam với thế giới và khu vực. Một số nước vốn có quan hệ với Việt Nam từ trước cũng ngừng quan hệ với Việt Nam. Trong khi đó, bọn phản động lưu vong chạy ra nước ngoài âm mưu câu kết với các thế lực đế quốc thực hiện chủ trương “chuyển lửa” về quê nhà, kích động chia rẽ các dân tộc, tôn giáo, xung đột vũ trang, gây mất ổn định tình hình chính trị – xã hội.
Mặt khác, từ sau năm 1975, do hậu quả chiến tranh chống Pháp và Mỹ rất nặng nề chưa khắc phục được, lại xảy ra hai cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam và phía Bắc. Cùng với khuyết điểm chủ quan do duy trì quá lâu cơ chế kế hoạch hóa, tập trung quan liêu bao cấp đã làm cho đất nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội trầm trọng. Việt Nam đang đứng trước nguy cơ tụt hậu ngày càng xa so với thế giới văn minh. Trong khi nhân loại đã chuyển sang thời đại của nền văn minh tri thức thì Việt Nam vẫn còn ở trong thời kỳ tiền công nghiệp hoá, hiện đại hoá (tức là chưa có công nghiệp hiện đại). Việt Nam vẫn là một nước có nền kinh tế phát triển thấp, tăng trưởng không ổn định, cơ sở hạ tầng và dịch vụ thấp kém, bình quân thu nhập quốc dân trên đầu người ở dạng các nước nghèo, trong khi các quốc gia cùng khu vực như Thái Lan, Brunây, Singapore, Indonesia… phát triển kinh tế rất nhanh.
Để phá vỡ thế bao vây cấm vận của chủ nghĩa đế quốc, tiến tới hội nhập quốc tế và khu vực, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội và tụt hậu xa hơn về kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giữ vững ổn định chính trị trong tình hình mới, một yêu cầu tất yếu khách quan và cấp bách được đặt ra là phải đổi mới toàn diện, trong đó có đổi mới đường lối đối ngoại của Đảng.
Phát huy truyền thống hòa bình, nhân ái, hữu nghị, hợp tác văn minh của nền ngoại giao Việt Nam và tư tưởng ngoại giao của Hồ Chí Minh thể hiện trong tuyên bố của Người: “Chính sách đối ngoại là thân thiện với tất cả các nước… mà không thù gì với nước nào” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 5, tr.169). Đảng ta chủ trương đổi mới đường lối đối ngoại là mở cửa, hội nhập vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

II. Nội dung đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ 1986 – 2004.
Đường lối đối ngoại là một bộ phận quan trọng, hợp thành đường lối chính trị của Đảng. Đường lối đối ngoại của Đảng nhằm khai thác tốt nhất các nhân tố quốc tế phuc vụ cho nhu cầu phát triển đất nước, đồng thời mở rộng và phát huy ảnh hưởng của dân tộc ta, đóng góp với cộng đồng quốc tế trong cuộc đấu tranh chung vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đảng ta coi đối ngoại là một mặt trận và hết sức quan tâm đến mặt trận này.
Từ việc nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trí của mặt trận đối ngoại, đặc biệt là đối ngoại trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã từ thực tiễn của công tác đối ngoại dần dần hoàn thiện đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) - Đại hội mở đầu thời kỳ đổi mới, Đảng ta chủ trương về đối ngoại là mở cửa và hội nhập quốc tế, quan hệ với tất cả các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. 
Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và xu thế quốc tế, Đại hội đã phác họa những đặc điểm nổi bật của thời đại là cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật đang diễn ra mạnh mẽ, tạo thành bước phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất và đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa các lực lượng sản xuất. Cuộc cách mạng này là nhân tố cơ bản thúc đẩy sự hình thành thị trường thế giới, trong đó, hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa vì yêu cầu phát triển phải hợp tác với nhau trong trạng thái đấu tranh, cạnh tranh quyết liệt. Đại hội VI nhấn mạnh: Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực kinh tế có ý nghĩa chính trị ngày càng quan trọng đối với kết cục cuộc đấu tranh giữa hai hệ thống…, giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau, sự lựa chọn duy nhất đúng đắn là thi đua về kinh tế, về lối sống… và cuộc thi đua này chỉ có thể được thực hiện trong hoàn cảnh hòa bình được đảm bảo vững chắc.
Quan điểm trên đây của Đại hội VI thể hiện bước tiến mới về tư duy chính trị quốc tế của Đảng. Sự đổi mới tư duy này đã đặt cơ sở cho việc xây dựng chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước phù hợp hơn, thích ứng hơn với tình hình thế giới.
Đại hội VI nhận thức rõ sự cần thiết phải đổi mới phương cách tập hợp lực lượng, một trong những bài học kinh nghiệm mà Đại hội rút ra là “phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới” và “xu thế mở rộng phân công, hợp tác giữa các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế – xã hội khác nhau, cũng là những điều kiện rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta”. Những nhận thức mới này đã đặt nền móng cho việc hình thành các chủ trương mở rộng quan hệ quốc tế của Đảng.
Về nội dung của chính sách đối ngoại, Đảng ta xác định: nội dung cơ bản của chính sách đối ngoại hiện nay là lấy kinh tế đối ngoại làm ưu tiên hàng đầu. Kinh tế đối ngoại có vai trò to lớn đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước như: góp phần tạo vốn; thúc đẩy quá trình đổi mới kỹ thuật – công nghệ theo hướng hiện đại hóa; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; tạo điều kiện khai thác tốt lợi thế so sánh của đất nước, thúc đẩy phát triển và tăng trưởng kinh tế – xã hội. Đại hội VI nhấn mạnh: Nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế trong chặng đường đầu tiên cũng như sự nghiệp phát triển khoa học – kỹ thuật và công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của nước ta tiến hành nhanh hay chậm, điều đó phụ thuộc một phần quan trọng vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Từ đó, Đảng chủ trương: sử dụng tốt mọi khả năng mở rộng quan hệ thương mại, hợp tác kinh tế và khoa học, kỹ thuật với bên ngoài để phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Bước vào thời kỳ mới, Đảng ta đặt vấn đề cần phải có quan điểm mới về an ninh và phát triển kinh tế, phải xử lý mối quan hệ này cho phù hợp với thời đại. An ninh và phát triển kinh tế là hai mục tiêu cơ bản trong các mục tiêu của hoạt động đối ngoại. Hai mục tiêu này có mối quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại với nhau. Tuy nhiên trong từng điều kiện cụ thể, vị trí, vai trò của từng mục tiêu có thể thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng. Trong một thế giới mà sự hợp tác, liên kết về kinh tế, sự đan xen lợi ích và sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng gia tăng, thì vấn đề an ninh của một quốc gia phải gắn với an ninh khu vực, thậm chí an ninh của cả thế giới. Việc Việt Nam tham gia tích cực vào quá trình liên kết, hợp tác kinh tế khu vực và quốc tế sẽ là một bảo đảm quan trọng cho an ninh của Việt Nam. Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị (5/1988) về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới, đã chỉ ra những cơ hội và thách thức đối với cách mạng nước ta và khẳng định “lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế. Đó là nhân tố quyết định củng cố, giữ vững an ninh và độc lập… Cần phải có quan điểm mới về an ninh và phát triển trong thời đại ngày nay để khẳng định mạnh mẽ phương hướng ưu tiên tập trung cho sự nghiệp giữ vững hòa bình và phát triển kinh tế”. Nghị quyết còn chỉ rõ: “với một nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng vừa đủ mạnh cùng với sự mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế chúng ta sẽ càng có nhiều khả năng giữ vững độc lập và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội hơn”.
Trong tình hình mới, để tạo điều kiện và cơ hội giữ vững hòa bình, phát triển kinh tế, Nghị quyết 13 Bộ Chính trị xác định quan điểm: trong quan hệ quốc tế, chúng ta phải “thêm bạn, bớt thù”, ra sức tranh thủ các nước anh em bầu bạn và dư luận rộng rãi trên thế giới, phân hóa hàng ngũ đối phương, làm thất bại âm mưu bao vây, cô lập ta về kinh tế, chính trị; kiên quyết chủ động chuyển cuộc đấu tranh từ tình trạng đối đầu sang đối thoại, đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hòa bình; lợi dụng sự phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật và xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới để tranh thủ vị trí có lợi nhất trong phân công lao động quốc tế; kiên quyết mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, ra sức đa dạng hóa quan hệ.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (3/1989), tiếp tục quán triệt chủ trương mở rộng quan hệ quốc tế, tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế, chuyển mạnh hoạt động ngoại giao từ quan hệ chính trị là chủ yếu sang quan hệ chính trị – kinh tế, mở rộng quan hệ kinh tế, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (3/1990), coi việc mở rộng quan hệ đối ngoại theo phương châm “thêm bạn, bớt thù” là một trong những nhiệm vụ cấp bách và quán triệt không để các vấn đề cục bộ, tạm thời, thứ yếu cản trở việc thực hiện nhiệm vụ chiến lược của ta; nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, đoàn kết quốc tế phù hợp với tình hình mới; đa dạng hóa quan hệ quốc tế; đẩy lùi từng bước chính sách bao vây, cấm vận đối với nước ta.
Có thể nói, nội dung đổi mới tư duy về đối ngoại của Đảng ta được khởi xướng từ Đại hội VI, sau đó được Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị và các Nghị quyết tiếp theo của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương ( khóa VI ) phát triển, đã thể hiện rõ sự điều chỉnh chiến lược đối ngoại của nước ta trước tình hình mới. Sự điều chỉnh này đã đặt nền móng cho chiến lược đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước ta.
Vào đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp. Mô hình chủ nghĩa xã hội bị sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu; các thế lực đế quốc tăng cường sử dụng chiến lược "diễn biến hòa bình" chống phá nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Trước những thay đổi nhanh chóng của tình hình thế giới, Đảng ta nhấn mạnh yêu cầu của công tác đối ngoại là phải nhận thức kịp thời và dự báo được những diễn biến trong quan hệ quốc tế để có những chủ trương đối ngoại phù hợp.
Đáp ứng yêu cầu đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII cùa Đảng (6/1991) tiếp tục đổi mới tư duy đối ngoại và đề ra đường lối đối ngoại là đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ quốc tế. Theo quan điểm của Đảng ta, đa dạng hóa quan hệ có nghĩa là mở rộng quan hệ trên mọi lĩnh vực từ chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật đến các quan hệ về Nhà nước, về Đảng và các tổ chức đoàn thể xã hội. Đa phương hóa, có nghĩa là quan hệ với nhiều đối tượng khác nhau, với các tổ chức thuộc các xu hướng về chế độ - chính trị xã hội khác nhau, với các tổ chức phi chính phủ…
Tại Đại hội này, Đảng ta đã xác định: chỉ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí MInh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và của cách mạng Việt Nam. Thế l1 về đường lối đối ngoại, Đảng ta đã vận dụng tư tưởng ngoại hgiao của Hồ Chí Minh: "làm bạn với mọi nước dân chủ và không gây thù oán với ai" (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 5, trang 220). Tư tưởng "thêm bạn, bớt thù" được Đảng ta khẳng định một lần nữa. Hơn nữa, trong điều kiện mới, tư duy xác định "bạn, thù" theo tiêu chí củ (cùng phe là bạn, khác phe là thù) không còn phù hợp, mà đòi hỏi phải mềm dẻo hơn, linh hoạt hơn. Từ đó, Đại hội VII đã xác định phương châm đối ngoại là Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Trong giai đoạn mới, mục tiêu chung của các quốc gia là hòa bình, độc lập và phát triển. Các nước có thể có chế độ chính trị khác nhau, có điểm xuất phát từ kinh tế, chính trị, xã hội không giống nhau, thậm chí mục tiêu tiến lên khác nhau, nhưng vẫn có thể tỉm thấy tiếng nói chung trên nhiều vấn đề mà mỗi nước quan tâm. Quan hệ quốc tế rộng mở, đa phương (bao gồm song phương và đa phương) và đa dạng được Đảng ta khẳng định theo chiều hướng cởi mở vì mục tiêu ổn định và phát triển.
Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (6/1992) đã nhấn mạnh việc mở rộng, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ đối ngoại cả về chính trị, kinh tế, văn hoá và khoa học kỹ thuật, cả về Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức phi chính phủ, trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; bảo vệ, phát triển kinh tế, giữ gìn và phát huy những truyền thống và bản sắc tốt đẹp của nền văn hoá dân tộc. Mở rộng cửa để tiếp thu cái tốt: vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của nước ngoài, tiếp cận thị trường thế giới; nhưng phải đảm bảo an ninh quốc gia, bảo vệ tài nguyên, môi trường, hạn chế đến mức tối thiểu những mặt tiêu cực phát sinh trong quá trình mở cửa.
Xuất phát từ tình hình thế giới, chiến lược của các nước lớn và các xu thế chủ yếu trong quan hệ quốc tế, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1/1994) chủ trương triển khai mạnh mẽ và đồng bộ đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ đối ngoại, mở rộng quan hệ hợp tác nhiều mặt với tất cả các nước, trên cơ sở tư tưởng chỉ đạo là: giữ vững nguyên tắc độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với đặc điểm từng đối tượng ta có quan hệ.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII đã thể hiện sự tiếp tục đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng ta trước tình hình mới, đồng thời phản ánh tính tích cực, chủ động của Đảng ta trong việc nắm bắt tình hình và xử lý một cách sáng suốt, kịp thời các tình huống trong quan hệ quốc tế.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6/1996) đã tổng kết đánh giá công tác đối ngoại sau 10 năm đổi mới. Đại hội chỉ rõ: "Thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại là một nhân tố quan trọng góp phằn giữ vững hòa bình, phá thế bao vây, cấm vận, cải thiện và nâng cao vị thế nước ta trên thế giới, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước" (Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, trang 63). Trên cơ sở những thành tựu của công tác đối ngoại và đặc điểm tình hình thế giới, Đại hội VIII đã tiếp tục khẳng định: "Củng cố môi trường hòa bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa đê đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội" (Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, trang 120). Để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong tình hình mới, Đảng ta chỉ rõ phải tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ đối ngoại. Trong quan hệ với các nước, ra sức tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức ASEAN; không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống; coi trọng quan hệ với các nước phát triển và các trung tâm kinh tế – chính trị thế giới; đoàn kết với các nước đang phát triển, với phong trào không liên kết; tham gia tích cực và đóng góp cho hoạt động của các tổ chức quốc tế, các diễn đàn quốc tế. Phát triển quan hệ với các đảng cộng sản, đảng công nhân, các lực lượng cách mạng; quan hệ với các đảng cầm quyền, mở rộng ngoại giao nhân dân, các đoàn thể, các hội, các doanh nghiệp với các đối tác. 
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (12/1997), nhấn mạnh việc phát huy tốt nội lực kết hợp với mở rộng hợp tác quốc tế là vấn đề cơ bản quyết định thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và duy trì sự phát triển bền vững cho đất nước. Trong mối quan hệ giữa nội lực và nguồn lực bên ngoài, Đảng ta nhấn mạnh: Nếu không độc lập, tự chủ, không phát huy đầy đủ nội lực thì không thể đứng vững và đi lên một cách vững chắc và cũng không thể khai thác tốt hiệu quả nguồn lực bên ngoài. Mặt khác, trong thời đại ngày nay, nếu chúng ta không mở rộng quan hệ quốc tế, tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm và thị trường bên ngoài, thì Việt Nam khó thoát khỏi nguy cơ tụt hậu. Vì vậy, Đảng yêu cầu phải nắm vững và quán triệt sâu sắc phương châm: giữ vững độc lập, tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế; động viên cao độ nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ nguồn lực tối đa bên ngoài; xây dựng một nền kinh tế mở hội nhập khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu. 
Sự phát triển đường lối đối ngoại của Đảng được xác định rõ hơn trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001), trong khi khẳng định toàn cầu hóa là một xu thế khách quan, Đảng ta đồng thời chỉ rõ xu thế này đang bị chi phối bởi các nước phát triển, gây nên sự bất bình đẳng và nguy cơ đối với các nước đang phát triển. Chính vì vậy, cần phải quán triệt cụ thể hơn quan điểm độc lập, tự chủ. Đại hội làm rõ hơn quan điểm về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, “Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phải đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp phát triển đất nước” (Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 25-26). Mở rộng quan hệ với các nước nhưng không để nền kinh tế Việt Nam bị lệ thuộc và bị sự chi phối của bên ngoài.
Điểm mới về quan điểm đối ngoại ở Đại hội IX là lần đầu tiên  Đảng ta khẳng định: phải chủ động hội nhập về kinh tế. Trên cơ sở nhận thức sâu sắc bối cảnh thế giới và quan hệ chính trị quốc tế, đồng thời từ chỗ cảm nhận đầy đủ “thế” và “lực” của đất nước sau 15 năm đổi mới, Đại hội IX đã phát triển phương châm “Việt Nam muốn là bạn với các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” của Đại hội VII thành “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” (Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, trang 119). Điều này thể hiện bước phát triển mới về tư duy đối ngoại của Đảng ta, đồng thời khẳng định vị thế mới của đất nước ta trong quan hệ quốc tế đương đại. 
Nhiệm vụ đối ngoại trong những năm tiếp theo được Đại hội IX chỉ rõ: tiếp tục giữ vững môi trường hòa bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo đảm độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực là tư duy mới của Đảng trong những năm đầu của thế kỷ XXI. Đảng ta chủ trương: "Xây dựng và thực hiện kế hoạch hội nhập kinh tế quốc tế với lộ trình hợp lý và chương trình hành động cụ thể, phát huy tính chủ động của các cấp, các ngành và các doanh nghiệp, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế" (Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, trang 120). Hướng ưu tiên cho hoạt động đối ngoại được khẳng định: coi trọng và phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng. Nâng cao hiệu quả và chất lượng hợp tác với các nước ASEAN, cùng xây dựng Đông Nam á thành một khu vực hòa bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển. Thúc đẩy quan hệ đa dạng với các nước phát triển và các tổ chức quốc tế, tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu, đấu tranh loại bỏ vũ khí giết người hàng loạt, bảo vệ hòa bình, chống chạy đua vũ trang, góp phần xây dựng trật tự chính trị, kinh tế quốc tế dân chủ, công bằng.
Nhằm đẩy mạnh hơn nữa chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế. Trên cơ sở khẳng định những thành tựu quan trọng trong việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, đồng thời kiểm điểm những mặt yếu kém của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời gian qua, Nghị quyết Bộ Chính trị đã tập trung làm rõ hơn mục tiêu và những quan điểm chỉ đạo của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
Về quan điểm chỉ đạo, Nghị quyết yêu cầu quán triệt chủ trương đã được xác định tại Đại hội IX là: “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”. Ngoài ra, Nghị quyết còn nhấn mạnh các quan điểm: hội nhập kinh tế là sự nghiệp của toàn dân; hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa đấu tranh và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội vừa không ít thách thức; phải nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ đó đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước vừa đáp ứng quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh quốc phòng. Nghị quyết đề ra 9 nhiệm vụ cụ thể và 6 biện pháp tổ chức thực hiện quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nhằm phát huy cao độ nội lực, khai thác tối đa nguồn lực bên ngoài để tạo thế và lực mới cho công cuộc phát triển kinh tế – xã hội, đưa đất nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc trong thế kỷ XXI.
Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (05/1/2004), đã tiến hành đánh giá kiểm điểm nửa nhiệm kỳ đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội IX cùa Đảng và đề ra một số chủ trương, chính sách, giải pháp lớn để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội IX trong những năm tiếp theo. Về hội nhập kinh tế quốc tế, Hội nghị nhấn mạnh, trong hai năm tới, phải có bước đi mạnh mẽ hơn, với quyết tâm cao hơn về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện có hiệu quả các cam kết và lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, chuẩn bị tốt các điều kiện trong nước để sớm gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO); kiên quyết đấu tranh với mọi biểu hiện của lợi ích cục bộ làm kìm hãm tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thu hút mạnh hơn nữa đầu tư trực tiếp nước ngoài, đặc biệt là đầu tư của các công ty đa quốc gia, coi đó là biện pháp rất quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và thâm nhập thị trường quốc tế… Xóa bỏ quy định không cho nước ngoài đầu tư vào những lĩnh vực ta có thể tự làm vì chủ trương này trên thực tế chỉ đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp trong nước muốn né tránh cạnh tranh, bất lợi cho nền kinh tế, cho người tiêu dùng và không phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Tóm lại, quan điểm đối ngoại rộng mở do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đề ra đã được các Đại hội và các Hội nghịi Trung ương, Bộ Chính trị từ khóa VI đến khóa IX tiếp tục bổ sung, phát triển ngày càng hoàn chỉnh đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa, xác lập vị thế của nước ta trên trường quốc tế, góp phần quan trọng vào sự thắng lợi của sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
iii. Thành tựu của hoạt động đối ngoại từ đường lối đối ngoại đổi mới của đảng.
Thực hiện đường lối chính sách đối đối ngoại đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, hoạt động đối ngoại đã thu được những thành tựu cực kỳ to lớn, góp phần không nhỏ vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước ta trong 15 năm cuối của thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI.
Thành tựu to lớn của hoạt động đối ngoại trong thời kỳ đổi mới là đã tạo thế, tạo lực và tạo đà cho đất nước ta thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội, phá thế bao vây cấm vận, bị cô lập, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ thời cơ, đẩy  lùi nguy cơ tụt hậu ngày càng xa so với các nước trên thế giới.
Nhận rõ xu hướng phát triển của lịch sử nhân loại, tổng kết thực tiễn 10 năm (1975 - 1985) cả nước định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội, với những thắng lợi và cả những thất bại, những khuyết điểm, Đảng chủ trương đổi mới toàn diện đất nước. Về đối ngoại đã mở rộng, hội nhập, phá thế bao vây cấm vận của Mỹ, hội nhập với các nước trong khu vực. Cùng với việc giải quyết tốt các vấn đề Campuchia, chúng ta rút hết quân tình nguyện Việt Nam sang giúp bạn về nước năm 1989 đã làm cho các nước trên thế giới hiểu nghĩa cử hào hiệp sáng ngời chính nghĩa, đầy thiện chí của Việt Nam, kính trọng nhân dân ta, gạt mũi nhọn của Mỹ và các nước thù địch lợi dụng vấn đề này để tuyên truyền chống phá Việt Nam.
Giải quyết tốt mối quan hệ láng giềng hợp tác hữu nghị thân thiết với các nước láng giềng. Bình thường hóa quan hệ với Trung Qíôc năm 1991. Sau khi bình thường hóa quan hệ ta đã ký kết các hiệp định biên giới trên bộ, trên biển, hiệp định đánh bắt cá vùng biển Đông với Trung Quốc. Ký kết các hiệp định song phương giải quyết các vấn đề còn tồn đọng về biên giới với các nước láng giềng Lào và Campuchia, tạo sự ổn định trong quan hệ với các nước này.
Có lộ trình thích hợp để gia nhập tổ chức Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN). Tháng 7/1992, Việt Nam ký hiệp ước Bali trở thành quan sát viên của tổ chức này. Đến tháng 7/1995, Việt Nam  được kết nạp là thành viên chính thức của tổ chức ASEAN. 
Tháng 6/1996, Việt Nam nộp đơn xin gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình Dương (APEC). Đến tháng 11/1998, Việt Nam được kết nạp làm thành viên chính thức của APEC,
Kết quả của đường lối đối ngoại mở rộng, đa dạng hóa, đa phương hóa với tinh thần Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới. Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Mỹ năm 1995, khép lại quá khứ hướng tới tương lai. Việt Nam đã có quan hệ với hầu hết các nước trên thế giới không phân biệt chế độ chính trị khác nhau. Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ chính thức với hơn 170 nước. Là đối tác thương mại của 153 quốc gia và gần 500 tổ chức phi Chính phủ, trong đó có 380 tổ chức có văn phòng đại diện tại Việt Nam.
Có quan hệ tốt với các nước xã hội chủ nghĩa, các đảng cộng sản, công nhân, phong trào đấu tranh của lực lượng tiến bộ trên thế giới. Hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam có quan hệ với gần 200 đảng phái trong đó có 101 đảng cộng sản và đẩy mạnh quan hệ với các đảng cầm quyền. Nhiều đoàn lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, Quốc hội thăm các nước. Nước ta cũng đã đón nhiều nguyên thủ các nước lớn đến thăm và làm việc tại Việt Nam những năm gần đây.
Nhờ đường lối đối ngoại đúng đắn, Việt Nam đã có chính sách rõ ràng, ổn định thu hút được vốn đầu tư ngày càng nhiều từ các nước có nền kinh tế và thương mại phát triển cao, các trung tâm kinh tế phục vụ cho sự phát triển đất nước. Tại Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam, các nhà tài trợ Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu á (ADB), Nhật Bản, EU đã dự định tài trợ cho Việt Nam hàng tỷ USD mỗi năm. Mỗi năm có khoảng 80 triệu đôla thuộc các tổ chức phi Chính phủ viện trợ cho Việt Nam. Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài chuyển về nước khoảng 2,4 tỷ USD (riêng năm 2004 đạt 3 tỷ USD) góp phần vào cân bằng cán cân thanh toán ngoại tệ. Đối ngoại đã góp phần đẩy mạnh vận động người Việt ở xa Tổ quốc đóng góp cho phát triển quan hệ với các nước và chuyển giao vốn, công nghệ tái thiết đất nước. Đã có hơn 200 trí thức Việt kiều về nước để làm việc và 156 trí thức đăng ký chuyển giao tri thức và công nghệ cho các dự án theo luật đầu tư nước ngoài với số vốn hàng chục triệu USD. Đối ngoại góp phần thúc đẩy kim ngạch buôn bán song phương và đa phương ngày càng tăng trên tất cả các thị trường, các khu vực trên thế giới.
Hoạt động đối ngoại đã tạo cho Việt Nam tham gia ngày càng nhiều vào các diễn đàn quốc tế và khu vực. Việt Nam đã có tiếng nói ở Liên hợp quốc: là Phó Chủ tịch Hội đồng khoá 57, thành viên của Uỷ ban nhân quyền, Hội đồng chấp hành UNESCO, thành viên Hội đồng chấp hành chương trình phát triển Liên hợp quốc. Việt Nam đã có đóng góp vào tiến trình hợp tác ASEAN, thực hiện chương trình hành động Hà Nội, thúc đẩy lộ trình tham gia AFTA vào năm 2006, phát triển hành lang Đông - Tây, hợp tác tiểu vùng sông Mê Kông, tiếp tục trao đổi với nhóm cộng tác viên giải quyết các vướng mắc để gia nhập WTO. Đối ngoại còn đóng góp to lớn vào tổ chức thành công các hội nghị quốc tế và khu vực, được tín nhiệm giao tổ chức hội nghị cấp cao Diễn đàn hợp tác kinh tế á - Âu (ASEM) lần thứ năm vào năm 2004 và Hội nghị cấp cao APEC năm 2006.
Với chính sách đối ngoại đúng đắn, rộng mở và đa dạng Việt Nam đã giữ vững sự ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, đập tan, giải quyết tốt những vấn đề nổi cộm do chủ nghĩa đế quốc dùng âm mưu "diễn biến hoà bình" thông qua việc giúp các tổ chức phản động chuyển lửa về quê hương, kích động các vấn đề dân tộc, tôn giáo ở Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và Tây Nghệ An…
Quán triệt quan điểm, đường lối chính sách đối ngoại của Đảng, các hoạt động đối ngoại của Đảng tiếp tục được triển khai đồng bộ, chủ động, tích cực đang thu được nhiều thành tựu rất to lớn. Trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào, thế giới đang có những diễn biến phức tạp, chính sách đối ngoại của Việt Nam đã góp phần giữ vững sự ổn định chính trị, bảo vệ định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm an ninh trật tự và phát triển của đất nước trong thế kỷ XXI.

 KẾT LUẬN
Xuất phát từ đặc điểm tình hình thế giới và tình hình trong nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã quyết định đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có đổi mới đường lối đối ngoại của Việt Nam. Trải qua các kỳ Đại hội lần thứ VII, VIII, IX của Đảng và các Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương, các Nghị quyết của Bộ Chính trị, đã từng bước bổ sung, phát triển, hoàn thiện đường lối đối ngoại của Đảng cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam và thích ứng với tình hình quốc tế. Đó là đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển.
Với đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng, hoạt động đối ngoại của Việt Nam trong gần 20 năm qua đã thu được nhiều thành tựu quan trọng, phá thế bao vây, cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam. Mở rộng được quan hệ song phương và đa phương với nhiều nước trên thế giới; tham gia và gia nhập vào nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và khu vữc, thu hút được một khối lượng lớn vốn từ bên ngoài cùng nhiều công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Đối ngoại cũng góp phần đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nền kinh tế nước ta có bước phát triển mới, tạo ra thế và lực của Việt Nam vững bước đi lên trên thương trường và chính trường quốc tế trong thế kỷ XXI./.

Giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ Đảng viên cơ sở ở thị xã Ninh Bình trong thời kỳ mới

07:43 |

Giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ Đảng viên cơ sở ở thị xã Ninh Bình trong thời kỳ mới


Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa khi bàn và đánh lĩnh vực nào, chúng ta cũng đều quan tâm đến vấn đề hiệu quả, nhất là hiệu quả hoạt động chính trị tư tưởng. 
Vậy, muốn làm rõ quan niệm về hiệu quả công tác chính trị tư tưởng phải làm rõ  quan niệm về chính trị tư tưởng, làm rõ nội hàm của quan niệm này. Chúng ta đánh giá hiệu quả chính trị tư tưởng của Đảng cũng cần phải bắt đầu thống nhất quan niệm về chính trị tư tưởng của Đảng nhằm: Phát triển hệ tư tưởng của Đảng hình thành phát triển cương lĩnh, đạo luật, cơ sở của Đảng trong từng giai đoạn, từng thời kỳ. Truyền bá hệ tư tưởng, truyền bá cương lĩnh, đường lối, cơ sở của Đảng trong xã hội để xây dựng thế giới quan khoa học. Nhân sinh quan cộng sản, xây dựng niềm tin cho cán bộ, Đảng viên trong nhân dân vào mục tiêu lý tưởng cách mạng, niềm tin vào đường lối, cơ sở, vào sự lao động  của Đảng và nhân dân. Cổ vũ, đông viên, giai cấp tự giác, chủ động, tích cực thực hiện nhiệm vụ của Đảng. Xây dựng đời sống xã hội tỉnh nhà cao đẹp mà điều cốt lõi là bồi dưỡng con người mới XHCN. Cùng vời công tác tổ chức,  xây dựng Đảng mạnh về chinh trị, tư tưởng và tổ chức. Đó cũng là 5 nội dung chủ yếu là thước đo cơ bản để đánh giá hoạt động của công tác tư tưởng của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng  khẳng định:”Muốn có CNXH phải có con người CNXH”. Ngày nay, trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, xây dựng đất nước cán bộ Đảng viên vững vàng về chính trị có trình độ chuyên môn cao là đòi hỏi tất yếu. 
Đối với Đảng và nhà nước ta, giáo dục là cách tốt nhất để nâng cao trình độ nhân thức của cán bộ Đảng viên, cũng là nâng cao trình độ, trí tuệ của toàn Đảng. Như những điều biết không có  trí tuệ thì không thể lao động được.  Ngay từ buổi đầu cách mạng, việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam thông qua những buổi học của:”Chủ nghĩa thanh niên cách mạng đồng chí Hội” một hình thức của giáo dục lý luận chính trị do Chủ Tịch Hồ Chí Minh( khi đó người tên la Nguyễn ái Quốc trực tiếp giảng day). Mà chúng ta đã có những lớp cán bộ đầu tiên rất kiên cường va hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. 
Nội dung giáo dục lực lượng chính trị là giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tương Hồ Chí Minh, cương lĩnh, điều lệ trong các nghị quyết của Đảng, cuộc sống pháp luật, pháp lệnh nhân dân. Đảng ta đã xác định chủ nghĩa Mác - Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động của Đảng và cách mạng.  Mọi thắng lợi hay vấp váp tổn thất của cách mạng đều liên quan trực tiếp đến việc Đảng ta có nhận thức và vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh hay không? Vì vậy của chủ nghĩa Mác - Lênintư tưởng Hồ Chí Minh là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công tác CTTT,  cũng là yêu cầu của sự nghiệp cách mạng.   chủ tịch Hồ Chí Minh đã dậy : “ Đối với công tác kháng chiến và kiến quốc lý luận là rất quan trọng.  Không hiểu lý luận như người mù đi đêm” “Đảng muốn đứng vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt,  trong Đảng ai cũng phải hiểu,  theo chủ nghĩa ấy” 
Mục đích của giảng dậy lý luận CTTT là nhàm giúp cho cán bộ, Đang viên không ngừng nâng cao trình độ thế giới quan chủ nghĩa Mác – Lênin, người sỹ quan cách mạng, phương pháp luận đúng đắn,  từ đó củng cố niềm tin vững chắc vào mục tiêu lý tưởng vào sự nghiệp của Đảng,  năng lực tư duy lý luận và nhằm “Làm cho thế giới quan chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống”
Tuy nhiên để đạt được những mục đích như vậy đòi hỏi sự nỗ lực của cả hai phía: Phía chủ thể giáo dục và phía đối tượng giáo dục; phải coi việc giảng dậy, học tập lý luận chính trị là nhu cầu là trách nhiệm, nghĩa vụ của cán bộ Đảng viên. Đây cũng là thước đo về phẩm chất CT,  phẩm chất đạo đức của người cán bộ đảng viên. Ngày nay tuy đời sống vật chất dần dần được nâng cao, cuộc sông cơ bản được cải thiện.  Cùng với nó là sự ảnh hưởng của mặt trái của thị trường, ảnh hưởng của các trào lưu văn hoá phi vô sản. Vì vậy một số cán bộ Đảng viên tha hoá về đạo đức, phai nhạt về lý tưởng cộng sản, người đó thường mơ hồ về chính trị và đặc biệt hạn chế về tư duy đến việc xử lý các công việc mang tính khách quan, duy y chí… Tình hình công tác tư tưởng của đội ngũ cán bộ Đảng viên ở tỉnh Ninh Bình cũng không năm ngoài thực trạng chung đó. Do vậy trước yêu cầu  nhiệm vụ đổi mới  của cách mạng hơn bao giờ hết, công tác giáo dục lý luận giáo dục, lý luận chính trị với việc  hình thành tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ cơ sở là nhiệm vụ cấp bạch hiện nay. Chúng ta cần phải đặt công tác giáo dục lý luận chính trị  trong điều kiện hiện nay trở thành nếp sinh hoạt hàng ngày ở mọi lúc mọi nơi, là tiêu chí đánh giá, xếp loại cán bộ Đảng viên. Bên cạnh đó chúng ta cũng nhận thấy: công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đi vào chiều sâu. Chúng ta sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá, phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế, do đó yêu cầu năng lực tư duy trong trình độ tri thức nhằm phát huy những mặt mạnh, khắc phục mặt yếu để phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững là một vấn đề  rất bức thiết. Thực tiễn đó đặt ra những vấn đề mới mẻ và phức tạp cho Ninh Bình, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, Đảng viên phải có khả năng tư tưởng đúng đắn đúng đắn  các qui luật phát triển kinh tế không chỉ của tỉnh nhà mà cả của đất nước phù hợp với thời đại và ý chí nguyện vọng của nhân dân, đồng thời có khả năng quản lý, điều hành qua thời phát triển kinh tế xã hội, đề ra được những giải pháp  đánh dấu đưa nước nhà hoà chung vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của cả nước. Với tầm quan trọng của công tác  giáo dục lý luận  chính trị cho cán bộ Đảng viên, em mạnh dạn chọn đề tài “giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ Đảng viên cơ sở ở thị xã Ninh Bình trong thời kỳ mới” với mong muốn trau dồi kiến thức cho bản thân. 
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
2. 1. Mục đích:
Trên cơ sở nghiên cứu về mặt lý luân và thực tiễn công tác giáo dục lý luận  chính trị từ yêu cầu nâng cao tư duy lý luận để đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận  chính trị nhằm hình thành tư duy lý luận cho cán bộ  Đảng viên cơ sở Ninh Bình trong thời kỳ hiện nay. 
2. 2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài:
Để thực hiện được nhiệm vụ trên đề tài phải giải quyết được vấn đề sau:
Làm rõ về một số vấn đề cơ bản về giáo dục lý luận  chính trị và vai trò của nó trong việc hình thành tư duy lý luận cho đội ngũ  cán bộ Đảng viên cơ sở Ninh Bình hiện nay.  Khảo sát thực trạng, hiệu quả công tác giáo dục lý luận  chính trị  xuất phát từ yêu cầu hình thành tư duy lý luận cho đội ngũ  cán bộ Đảng viên cơ sở Ninh Bình hiện nay. 
3. Phương pháp và phạm vi nghiên cứu:
3. 1. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng một số phương pháp cụ thể:
Một số phương pháp CNDVBC Lịch sử
Phương pháp phân tích
Phương pháp logic lịch sử
Phương pháp thiết kế, so sánh, tra cứu tài liệu
Phương pháp quan sát xã hội
Phương pháp sử dụng kiến thức liên ngành chính trị, lịch sử, triết học
3. 2. Phạm vi nghiên cứu:
Do thời gian và điều kiện chưa cho phép đề tài chỉ trong tìm hiểu quan sát thực trạng hiệu quả giáo dục lý luận  chính trị và thực trạng tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ Đảng viên cơ sở ở Ninh Bình hiện nay. 
4. Kết cấu đề tài:
Ngoài phần mục đích, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài còn có 3 chương với 19 mục.


Nội dung
Chương I: Một số lý luận chung về hiệu quả giáo dục lý luận chính trị với việc hình thành tư duy lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên cơ sở ở tỉnh Ninh Bình hiện nay

1. 1. Hiệu quả giáo dục chính trị – khái niệm và tiêu chí
1.1.1. Khái niệm hiệu quả giáo dục lý luận  chính trị:
Lý luận là một hệ thống tri thức khái quát tạo ra một quan niệm hoàn chỉnh về các qui luật và mối liên hệ cơ bản về hiện thực lý luận gắn bó một cách biện chứng với thực tiễn là cơ sở và là tiên đề của nhau, trong đó thực tiễn là thước đo chân lý của lý luận.
Theo từ điển từ và ngữ Hán Việt do giáo sư Nguyễn Lân biên soạn:”Giáo dục là một quá trình hoạt động có ý thức,có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức nhằm bồi dưỡng cho người ta có những phẩm chất đạo đức và những cần thiết để người ta có khả năng tham gia mọi mặt của đời sông xã hội “.
Giáo dục lý luận  chính trị là một công tác quan trọng trong công tác tư tưởng của Đảng. Đó là việc truyền bán những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng, cơ sở của phương pháp luận của nhân dân cho cán bộ, Đảng viên  và giai cấp nông dân. Đồng thời nó tác động vào đối tượng của giáo dục bằng cách trình bày, giải thích một cách khoa học những khái niệm, những qui luật, những quan điểm nhằm làm cho cán bộ, Đảng viên và nhân dân nhất thiết đúng đắn của nguyên lý chủ nghĩa Mác – Lênin, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, nhất trí cao với đạo luật, qui định của Đảng, nâng cao phẩm chất cách mạng và năng lực hoạt động thực tiễn của họ, hướng dẫn họ vận dung những tri thức lý luận vào thực tiễn cuộc sống. Công tác giáo dục lý luận  chính trị là hoạt động có chủ định của Đảng cộng sản nhằm xác lập thế giới quan khoa học trên cơ sở hệ tư tưởng, lập trường của giai cấp công nhân và của chủ nghĩa Mác – Lênin. Khi nói đến hiệu quả chúng ta thường đề cập đến 3 vấn đề : Là sự so sánh kết quả đạt được và mục đích đặt ra. Là sự so sáng giữa kết quả có trước và kết quả sẽ có sau khi tiến hành một hoạt động. Và sự so sánh kết quả đạt được và chi phí về nhân lực, vật lực, tài lực để dạy được kết quả đó.
Vậy hiệu quả của giáo dục lý luận chính trị là tương quan giữa kết quả đạt được với mục đích của giáo dục lý luận chính trị được đạt ra và vốn chi phi để đạt được kết quả đó trong một điều kiện xã hội nhất định.
1.1.2. Tiêu chí đánh giá hiệu quả giáo dục lý luận chính trị 
- Phải có trình độ năng lực phương pháp tư duy lý luận của cán bộ Đảng viên và nhân dân. Muốn phát triển chủ nghĩa Mác, muốn hoàn thiện tư tưởng Hồ Chí Minh và muốn vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh vào chủ nghĩa xã hội đúng đắn thì đòi hỏi mỗi cán bộ Đảng viên phảI có trình độ năng lực tư duy lý luận.
- Có khả năng vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh điều kiện của Đảng vào thực tiễn xã hội
- Đội ngũ cán bộ Đảng viên phải có hứng thú đối với nội dung giáo dục lý luận chính trị.
- Phải có những khả năng đánh giá đúng và định hướng trước những diễn biến phức tạp của hiện thực xã hội.
- Có ý chí vững vàng trong cuộc sống đấu tranh chống lại ảnh hưởng của hệ tư tưởng tự ràn và các quanh điểm phi khoa học
- Có sự thống nhất giữa lời nói và việc làm giữa quan điểm và hoạt động.
- Có sự mong muốn tham gia tích cực vào hoạt động thực tiễn xây dựng đường lối, cơ sở của Đảng và hiến pháp, pháp luật của nhà nước…
1.2. Tư duy lý luận và con đường hình thành tư duy lý luận:
Tư duy là đặc tính hoạt động của bộ óc con người là một trong những đặc điểm cơ bản phân biệt con người với động vật. Do đó, nó là một hiện tượng xã hội gắn  liền với sự vận động,  phát triển lịch sử phát triển của loài người…Tư duy gắn liền với ngôn ngữ, tư duy phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giả đến phức tạp. Người ta có thể phân tích tư duy theo nhiều bình diện, nhiều cấp độ. Tư duy lý luận là trình độ cao của tư duy, tư duy lý luận dựa trên các phương tiện là những khái niệm, phạm trù và qui luật
Vậy con đường hình thành tư duy lý luận đó là:
Tư duy lý luận là tư duy khoa học, là trình độ cao của ý thức con người. Tư duy lý luận là kết quả sự kết hợp biện chứng giữa hai quá trình nghiên cứu hoạt động nghiêm túc và quá trình tự dèn luyện trong quá trình thực tiễn một cách kiên trì “Chủ thể công tác tư tưởng nhất thiết phải không ngừng trau dồi tư duy lý luận chính trị” bởi không có tư duy lý luận thì khó mà thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ công tác chính trị ( quá trình học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh…).
Người làm công tác chính trị hiện nay nhất thiết phải nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh phải nắm vững lịch sử Đảng và lịch sử Cách mạng chủ nghĩa. Nắm vững cương lĩnh, đường lối cách mạng của Đảng ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và có tri thức cần thiết về lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Nhưng không có những vốn kiến thức đó thì phải có văn hoá chung khá phong phú, phải am hiểu nhất định các lĩnh vực lý luận khoa học khác. Đặc biệt phải có những tri thức thực tiễn cần thiết.
Chủ nghĩa Mác – Lênin, là một khoa học lý luận đó dựa trên trên một cấu trúc hoàn chỉnh, vững chắc. Một bộ phận trên một cấu trúc hoàn chỉnh vững chắc. Một bộ môn  hợp thành cấu trúc lại có một hệ thống kinh nghiệm phạm trù, qui luật nhất định.Tư duy lý luận nhất thiết phải nắm lấy các phương tiện lôgic, tức là hệ thông kinh nghiệm, phạm trù, qui luật suy nghĩ. Cần chú y rằng các khái niệm trong khoa học và trong cuộc sống đời thường phải luôn luôn trùng nhau. Đặc biệt cần chú ý trong khoa học xã hội do sự khác nhau về hệ tư tưởng cho nên nội hàm và ngoại diện của cùng một thuật ngữ có khi khác, thậm chí đối lập nhau. Khi tư duy lý luận tồn tại bắt buộc phải ý thức rõ nội hàm và ngoại diện của thuật ngữ, khái niệm đó, đồng nhất phải ý thức được những quan niệm khác trong thuật ngữ do bị chi phối bởi ý  thức của hệ. Như chúng ta đã biết quan niệm về dân chủ, nhân quyên giữa nước ta và phương tây là khác nhau. Chỉ có được những kết luận đúng đắn với những điều kiện và có những điều kiện chính xác và phương pháp suy luận biện chứng duy vật.
Phương pháp rèn luyện tư duy lý luận chủ yếu là gắn lý luận với thực tiễn. Mặt khác, lấy thực tiễn, hệ quả và kinh nghiệm thực tiễn làm tiêu chuẩn để kiểm nghiệm lý luận, phát triển và hoàn thiện tư duy.
Trong học tập và ren luyện tư duy lý luận cần phải đặc biệt chú ý khắc phục thói tự biện, khái niệm chỉ quanh quẩn tới lui trong các thuật ngữ khái niệm quen thuộc, xa rời cuộc sống sinh động. Không phải ngẫu nhiên  mà xuất hiện khuynh hướng nhân danh đời mới chống giáo điều bảo thủ ( đối với chủ nghĩa Mác - Lênin), nhưng thực chất là sao chép từ sách vở.
Quá trình rèn luyện trong thực tiễn là một biện pháp cơ bản trong hoạt động lý luận nói chung và  cho rèn  luyện tư duy lý luận nói riêng. Bởi vì xét cho cùng lý luận tư tưởng thực tiễn mà kết quả nên tổng hợp kết quả thực tiễn là biện pháp có hướng chống cả hai khuynh hướng cơ hội, xét lại trong giáo điều, bảo thủ trong tư duy lý luận. Do đó tổng kết thực tiễn là con đường cơ bản để phát triển tư duy lý luận sáng tạo kinh nghiệm cách mạng chủ nghĩa đã chỉ ra rằng, lúc nào chúng ta độc lập tự chủ và sáng tạo tư duy lý luận, lấy thực tiễn đất nước làm xuất phát điểm để hoạch định đường lối, cuộc sống thì chúng ta danh được thuận lợi, lúc nào chúng tao cũng sao chép một cách máy móc kinh nghiệm của nước ngoài thì cách mạng nếu như khó khăn tổn thất.
Tóm lại con đường hình thành tư duy lý luận nói chung và ở mỗi cán bộ Đảng viên nói riêng nhất thiết phải trải qua hai quá trình: Quá trình học tập chủ nghĩa  Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững hệ thống khái niệm, phạm trù khoa học lý luận, tích luỹ cho được hệ thống tri thức nhất định về tự  nhiên xã hội và tư duy… mặt khác là quá trình rèn luyện trong thực tiễn… rèn luyện lập trường, phương pháp và nhân cách tiếp cận, xem xét nghiên cứu những vấn đề do cuộc sống đạt ra, qua thực tiễn và qua tổng kết thực tiễn không ngưng được nâng cao khả năng  tư duy lý luận,tư duy lý luận phải thường xuyên mài sắc, bổ xung, phát triển không ngừng, đó là công việc thường xuyên của người làm công tác tư tưởng.
1.3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận đạo đức với việc hình thành tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ đảng viên cơ sở hiện nay
- Cán bộ là khái niệm chỉ những người có chức vụ, và cương vị nòng cốt trong một tỏ chức, có tác động ảnh hưởng đến  hoạt động của tổ chức  và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy quản lý, điều hành, góp phần định hướng hoạt động tổ chức.
- Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam là người chiến sĩ  cách  mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đạt lợi ích của tổ Quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích của cá nhân; chấp hành nghiêm cương lĩnh chính trị, điều lệ Đảng, các nhiệm vụ của Đảng và pháp luật của nhà nước, có lao đông không có bóc lột, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ tổ chức; kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng.
1.3.1. Vai trò của việc nâng cao hiệu quả giáo dục lý tưởng chính trị với việc hình thành tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ -  Đảng viên ở cơ sở hiện nay
Vai trò của cán bộ - Đảng viên thể hiện qua bốn mối quan hệ:
Một là đối với  đường lối, chính sách, hai là với bộ máy (các cơ quan, tổ chức lãnh đạo, quản lý ); ba là với công việc; bốn là với giai cấp.
Chỉ khi nào hoàn thành  được sứ mạng do mối quan hệ đó đòi hỏi người cán bộ - Đảng viên mới thực hiện đúng vai trò của mình.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: “Cán bộ là người đem chính sách của Đảng, chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành và đem tình hình của nhân dân báo cho Đảng, chính phủ hiểu rõ để đặt ra chính sách cho đúng” cán bộ - Đảng viên là “ cầu nối” giữa Đảng chính phủ với giai cấp, nhưng không phải là  “vật mang” là “dây dân”,  là sự chuyển tải cơ học mà họ chính là những người đủ tư chất, tài năng đạo đức để làm việc đó. Bởi lẽ, để đem chủ chính sách của Đảng và chính phủ giải thích cho nhân dân được rõ và thi hành đòi hỏi người cán bộ - Đảng viên phải có trình độ, trí tuệ nhất định. Nếu không người cán bộ Đảng viên sẽ không quán triệt hết, thậm chí còn lam sai lệch tính chất, nội dung của chính sách thì thật là nguy hiểm.Ngoài điều kiện có trình độ nhất định, người  cán bộ Đảng viên phảI có một bản lĩnh chính trị, một phẩm chất đạo đức cách mạng, giải thích được chủ trương chính sách của Đảng và chính phủ là một việc khó, nhưng khó khăn va phức tạp hơn nhiều đó là là năm rõ được tâm tư, nguyện vọng chính đáng của giai cấp, cung như phản ánh  đúng thực chất của tình hình để làm căn cứ cho việc hoạch định chính sách. Công việc này đòi hỏi  người cán bộ phải có trình độ tổng kết thực tiễn, khái quát để nâng lên thành lý luận. Đây là công việc không đơn giản, nó đòi hỏi sự thống nhất của bản thân người cán bộ Đảng viên với tư cách vừa là một nhà khoa học vừa là một người chiến sỹ cách mạng nhiệt thành.
Trong bất kỳ một giai đoạn nào của cách mạng, cán bộ Đảng viên luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng, đảm bảo vai trò của Đảng đối với cách mạng vô sản. Ngày nay khi dân tộc ta cùng nhân loại bước sang thế kỷ XXI, hội nhập với thế giới, thì cán bộ Đảng viên nước ta sẽ như một “tổ lái” có nhiệm vụ “lái cỗ xe” với hơn 80 triệu dân bước vào thế kỷ mới, hội nhập với thế giới hiện đại đầy biến động do đó vai trò của cán bộ Đảng viên là đặc biệt quan trọng.
1.3.2. Vai trò của hoạt động giáo dục lý luận chính trị với việc hình thành tư duy chính trị cho cán bộ Đảng viên cơ sở
Bàn về mục đích giáo dục và học tập lý luận, chính trị, chủ tịch HCM đã chỉ rõ “Học để sửa chữa tư tưởng. Hăng hái  theo cách mạng điều đó rất hay. Những tư tưởng chưa thật đúng là những tư tưởng cách mạng, vì thế cần học tập để sửa chữa cho đúng thì hành động mới khỏi bị sai lạc và mới làm tròn nhiệm vụ của cách mạng được”.
Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng: “có đạo đức cách mạng thì mới hi sinh tận tuỵ với cách mạng, mới lãnh đạo được giai cấp cách mạng đến thắng lợi hoàn toàn”.
Học để tin tưởng vào:  Đoàn thể tin tưởng
Tin tưởng vào nhân dân
Tin tưởng vào tương lai của dân tộc
Tin tưởng vào tương lai của cách mạng
Có tin tưởng thì lúc ra thực hành mới vững chắc hăng hái, lúc gặp khó khăn mới kiên quyết hy sinh.
Học để hành : Học với hành phải đi đôi.  Học mà không hành thì vô ích. Học mà không hành thì không trôi chảy. Công tác giáo dục  chính trị là một bộ phận của công tác tư tương. Hiên nay, công tác tư tưởng  có một vai trò hết sức quan trọng. Như chúng ta đã biết trên thế giới hiện nay tồn tại hai tư tưởng: Vô sản và tư sản không có hệ tư tưởng chung gian,  nếu ta không làm tốt công tác tư tưởng, giáo dục lý luận chính trị trong giai đoạn hiện nay thì tự chúng ta để cho tư tưởng Tư sản có mảnh đất hoạt động, công tác giáo dục lý luận chính trị luôn đồng hành với sự nghiệp cách mạng của Đảng ta  hơn 73 năm qua. Ngày nay các thế lực thù địch đang tìm mọi cách chống phá các nước XHCN chúng cho rằng sự sụp đổ của Liên Xô đánh dấu chấm hết cho: Việt Nam, Trung Quốc, Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, CuBa đứa con của chủ nghĩa Mác. Cuộc đối đầu trực diện giữa hai bên chủ nghĩa xã hội và CNTB mà chủ yếu là cuộc đối đầu Xô - Mỹ không còn nữa nhưng chiến  tranh tư tưởng không phải lã đã kết thúc ngày càng quyết liệt nhưng âm thâm bằng chiến lược “diễn biến hoà bình”. Các thế lực thù địch coi Việt Nam là một trọng điểm đẻ chống phá, nhưng chúng  nghĩ rằng bước sang thế kỷ XXI,  Việt Nam, Trung Quốc không những không bị tiêu diệt mà ngày càng mạnh mẽ và đạt được những thành tuỵ hết sức to lớn hơn lúc nào hết công tác giáo dục lý luận chính trị phải được đạt lên hàng đầu trong toàn bộ hệ thống chính trị của Đảng. Tầm quan trong đó bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác - Lênin đối với quá trình phát triển của chủ nghĩa xã hội, hệ tư tưởng toàn dân trong chế độ XHCN. Vấn đề nâng cao trình độ Mác - Lênin cho cán bộ,  Đảng viên là một vấn đề thường xuyên của Đảng, bởi những vấn đề của chủ nghĩa Mác - Lênin soi đường chỉ lối cho Đảng và công tác lãnh đạo cách mạng. Không có lý luận thì không thể có  phong trào cách mạng, cho nên công tác giao dục là một vấn đề quan trọng bậc nhất của Đảng chủ nghĩa Mác – Lênin. Hiện nay toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang tập chung học tập tư tưởng HCM. Mỗi cán bộ, Đảng viên phải thấy rõ vai trò của mình đối với học tập và nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tương Hồ Chí Minh chính là một vấn đề  thuộc về chính Đảng, một vấn đề có quan hệ đến sinh mạng của Đảng.
Đối với Đảng, nhà nước ta coi giáo dục lý luận chính trị là nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết khẳng định giáo dục lý luận chính trị là một bộ phận quan trọng của công tác tư tưởng của Đảng là truyền bá nhưng nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng cho cán bộ Đảng viên và giai cấp nhân dân. Đó là quá trình tạc động đối tượng bằng giáo dục bằng cách trình bày, giải thích một cách khoa học những khái niệm những định luật, những quan điểm… nhằm làm cho cán bộ, Đảng viên trong giai cấp nhân dân nhận thức đúng đắn những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, kiên định mục tiêu lý tưởng, đường lối, gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhất trí cao đường lối quan điểm của Đảng, nâng cao phẩm chất cách mạng và năng lực hoạt động thực tiễn hướng dẫn họ vận dụng những hiểu biết ấy vào cuộc sống giáo dục lý luận chính trị của Đảng viên không phải là một công việc trừu tượng, càng không phải là một thuyết giáo xa xôi với cuộc sống mà là những yêu cầu nhiệm vụ cần thiết nhất của cách mạng. Vì vậy mà giáo dục lý luận chính trị không được lý luận chính trị thành công thức vững chắc, trừu tượng mà phải trình bày một cách khoa học, dễ hiểu sinh động và có sức thuyết phục cao với những quan điểm của Đảng,  củng cố niềm tin ý chí cách mạng để thực hiện thuận lợi đường lối chính sách của Đảng.
Lý luận chính trị là một vấn đề quan trọng của toàn Đảng, do vậy việc truyền đạt  tư tưởng chính trị  thuộc về các cơ quan ban ngành có chức năng, các cơ quan giáo dục lý luận chính trị.  Đồng thời các lực lượng khác trong xã hội là các cán bộ Đảng viên, quản lý ở các giai cấp, các ngành phải quan tâm đến  học tập nhằm nâng cao trình độ lý luận vận dụng lý luận vào thực tiễn, tổng kết thực tiễn để rút ra những vấn đề thực lý luận, đó là những cấp độ khác trong hoạt động tư duy và hoạt động của con người.
Theo tiến trình V.I Lênin, chúng ta hiểu rằng thái độ không quan tâm đến lý luận, coi thường lý luận nhất điểm sẽ dẫn đến sai lạc, dẫn đến lẫn lộn và sai lầm của người quản lý, lãnh đạo. Mọi sự hạn chế về lý luận đều có thể làm cho con ngươi dừng lại ở chủ nghĩa kinh nghiệm, dễ đi đến những kinh nghiệm không đúng đắn hoặc vội vàng thậm chí có thể rơi vào cạm bẫy của những thói đời dối trá của bọn cơ hội.
Vì vậy, mục đích của công tác giáo dục lý luận chính trị là xây dựng thế giới quan khoa học, phương pháp luận đúng đắn, những sản phẩm cộng sản cho cán bộ Đảng  viên của giai cấp nông dân, giúp họ khắc họ khắc phục những tư tưởng lạc hậu, những tàn tích của hệ tư tưởng cũ, nâng cao trình độc chính trị, nhiệt tình cách mạng, tính tự giác, tích lực trong quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.


Chương II: Thực trạng hiệu quả giáo dục lý luận chính trị với việc hình thành tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ, đảng viên cơ sở ở tỉnh Ninh Bình hiện nay

2.1. Một số đặc điểm về tỉnh Ninh Bình;
Tỉnh Ninh Bình nằm ở cực nam của đồng bằng bắc bộ với diện tích tự nhiên là 1420,7 km2 trong do đồi núi và nửa đồi núi chiếm 70%, đất sử dụng nông nghiệp là 67,125 ha, đất sử dụng vào lâm nghiệp là 19,033 ha.
Ninh Bình là tỉnh rất thuận tiện về giao thông, cả về đường bộ lẫn đường thuỷ. Với quốc lộ 1A, quốc lộ 10 và đường sắt xuyên Việt chạy qua, là đầu mới giao thông Bắc – Nam giao thông đường thuỷ có sông Đáy có thuyền ra vào biển Đông. Sông Vân năm vắt ngang qua trung tâm thị xã tạo cảnh quan trên bến dưới thuyền. Nhờ có đường giao thông thuỷ bộ thuận lợi, Ninh Bình trở thành đầu mối giao thông liên lạc với các tỉnh Nam Đinh, Hà Nội, Thanh Hoá. Đây thực sự là tiềm năng quan trọng nhất để phát triển  kinh tế – xã hội của tỉnh.
Qua nhiều lần biến đổi, đến nay Ninh Bình có 6 huyện và thị xã với 125 xã, 11 phường, 6 thị trấn.
Toàn tỉnh có 90 vạn dân, hầu hết là người kinh, có khoảng 2 vạn đồng bào Mường sống tập chung ở Nho Quan và thị xã Tam Điệp. Nhân dân Ninh Bình sống chủ yếu bằng nghề nông chiêm khoảng 80% nhân khẩu. Những năm gần đây kinh tế thương mại, du lịch – dịch vụ phát triển mạnh và được khẳng định là một thế mạnh đầy tiềm năng. Ngành du lịch – dịch vụ phát triển đã thu hút đông đảo du khách trong nước và nước ngoài đến Ninh Bình với các danh lam thắng cảnh: Cố đô Hoa Lư, rừng quốc gia Cúc Phương, Tam Cốc – Bích Động…đã làm biến đổi sâu sắc đời sống văn hoá, sinh hoạt của người dân Ninh Bình. ở Ninh Bình có hai tôn giáo chính là công giáo và phật giáo tín ngưỡng dân gian và lễ hội cũng là sinh hoạt thống nhất lâu đời của nhân dân cùng  tồn tại trong quá trình phát triển lịch sử xã hội trên đất nước,  Ninh Bình. Song song với phát triển kinh tế, sự nghiệp vắn hoá - giáo dục… của tỉnh đã có bước đi vững chắc. Số học sinh ngày càng tăng. Hệ thống thông tin, truyền tin phát triển mạnh. Mạng lưới y tế, thể dục thể thao, chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được Đảng bộ chú trong. Lao động và đầu tư xây dựng cuộc sống vật chất phát triển ngày càng tốt hơn.
2.2. Tình hình công tác giáo dục lý luận chính trị với việc hình thành tu duy lý luận chính trị cán bộ Đảng viên ở Ninh Bình hiên nay:
Để cán bộ, Đảng viên được nâng cao trình độ, năng lực tư duy lý luận thì Đảng và nhà nước cần có những chủ trương chính sách đồng bộ, thiết thực trong công tác giáo dục nói chung và công tác giáo dục lý luận chính trị nói riêng. Trong thời gian qua  Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, quyết định quan trọng về công tác giáo dục lý luận chính trị trong Đảng. Nghị quyết số 210 của ban bí thư khoá III ngay 29/12/1970 “Về công tác giáo dục lý luận chính trị và tư tưởng đối với cán bộ, Đảng viên” là nghị quyết đầu tiên đề cập một cách toàn diện, sâu sắc về công tác giáo dục lý luận chính trị. Nghị quyết đề ra những nhiệm vụ biên soạn và tiến hành giáo dục cán bộ Đảng viên theo 4 cấp chương trình cơ bản: cơ sở, sơ cấp, trung cấp và cao cấp; tổ chức hệ thống trong Đảng ( trường Nguyễn ái Quốc trung ương các trường Đảng trung cấp theo ngành, các trường lớp tại chức ) đề ra nhiệm vụ quy hoạch cán bộ với nội dung quan trọng và tiêu chuẩn hoá trình độ lý luận của mỗi cán bộ ở mỗi chức vụ. Tiếp theo đó ngày 25/12/1974 Ban chấp hành Trung Ương Đảng khoá III có nghị quyết về công tác xây dựng Đảng,nghị quyết này đề ra mục tiêu đến năm 1980 cán bộ Đảng viên học chương trình giáo dục lý luận chính trị theo qui định. Sau đó hầu như các kỳ đại hội Đảng ta đều đề cập đến công tác giáo dục chính trị, công tác trong Đảng. Đại hội VIII chỉ rõ: “Mọi cán bộ, Đảng viên trước hết là cán bộ lao đông chủ chốt phải có kế hoạch thường xuyên học tập,  nâng cao trình độ ly luận chính trị, kiến thức và năng lực  hoạt động Đảng thực tiễn.
Đại hội IX khẳng định thêm : từ nay đến năm 2005 phần cán bộ lao đọng chủ chốt từ cấp huyện trở lên học xong chương trình cao cấp về lý luận chính trị và có trình độ đại học về một chuyên ngành cụ thể nhất định.
Thực hiện nhưng văn bản trên của Đảng, những năm qua phong trào phong trào học tập ly luận chính trị của Đảng ngày càng phát triển và thu được nhiều hiệu quả tích cực, góp phần nâng cao trình độ lý luận chính trị của cán bộ Đảng viên, phát triển cùng sự nhận thức trong Đảng, ổn định tư tưởng chính trị trong mọi cấp,mọi ngành,mọi bộ phận.
Cùng với các địa phương trong cả nước thực hiện chủ trương kế hoạch đào tạo lý luận chính trị cho cán bộ Đảng viên, nhất là cán bộ Đảng viên cơ sở.Ninh Bình đã đạt được những thành tuỵ nhất định.
2.2.1. Thành tựu và nguyên nhân
Trong những năm qua, các trọng tâm bồi dưỡng tỉnh đã đào tạo được nhiều lớp lý luận chính trị cho hàng vạn lượt cán bộ cơ sở. Ban tuyên giáo các cấp,  các trường chính trị, các phương tiện thông tin đạI chúng, cơ quan văn hoá thông ti các cấp trong tỉnh…. đã trang bị cho đội ngũ cán bộ cơ sở những tri thức vật lý về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng HCM, đường lối chính sách cua Đảng, những tri thức về xây dựng phát triển kinh tế xã hội.
Trường chính trị của tỉnh là công cụ sắc ben quan trọng của các cấp uỷ Đảng trong việc triển khai công tác giáo dục lý luân  chính trị.  Với chức năng nhiệm vụ chủ yếu là đào tạo cán bộ Đảng viên, cơ quan và đoàn thể nhân dân, bồi dưỡng ngắn về lý luân  chính trị, công tác Đảng, quản lý công tác vận động quá trình trong trường chính trị tỉnh phối hợp cùng cơ quan tổ chức chính quyền tỉnh, sở tàI chính vật giá đã sớm chỉ đạo và xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ năm 2002 để báo cáo thường vụ tỉnh uỷ và khẩn trương triển khai thực hiện sau khi được duyệt. Đến nay đã tiến hành khai giảng được hai lớp trung cấp chính trị cho 207 học viên tại thị xã Tam Điệp và thị xã Ninh Bình; duy chì quản lý 1 lớp cao cấp và một lớp cử nhân chính trị gồm 223 học viên tại tỉnh và 5 lớp trung cấp chính trị tại các huyện, thị xã làm thủ tục thông báo, chiêu sinh 10 đồng chí đI học cử nhân chính trị, một đồng chí đi học cao cấp chính trị. Số lớp đã mở,sở huyện đã cử đi học và được phát triển hơn so với năm 2000 và những năm trước. Từng năm đã cử đi 51 đồng chí đi đào tạo lý luận tại các trường trung ương, trong đó học cử nhân chính trị là 43 (có 23 đồng chí học tạI chức tạI Hà Nội ) cao cấp chính trị 8 đòng chí. Ngoài ra trường còn tiến hành  khai lớp cao cấp chính trị tại chức gồm 112 đồng chí, mở 62 lớp đào tạo bồi dưỡng cho 5517 hội viên trong đó có 7 lớp trung cấp chính trị.
Đồng thời nhà trường còn phối hợp với các trung tâm chính trị cấp huyện mở được các lớp bồi dưỡng lý luận chính trị ngắn hạn cho hàng vạn  lượt học viên là cán bộ cơ sở. Đội ngũ này sau khi được học chương trình lý luẩn trở về công tác tạI cơ sở cơ bản công tác tốt.
Trong những năm qua hoạt động của ban tuyên giáo tỉnh uỷ Ninh Bình được tiếp tục triển khai có hiệu quả. Ban tuyên giáo đã tiến hành tham mưu chỉ đạo kiểm tra rát rao công tác giáo dục lý luân  chính trị, chủ động đưa chủ trương,  đạo luật, chính trị, chủ động đưa chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng cho cán bộ Đảng viên. Ban tuyên giáo đã chỉ đạo, phối hợp với các cơ quan  truyền thông để truyền tin kịp thời, có ảnh hưởng đáp ứng đủ yêu cầu thông tin ngày càng cao của cán bộ Đảng viên, tích cực chống lại âm mưu, hành động “diễn biến hào bình của các thế lực thù địch, kiên quyết chống lại các tệ nạn xã hội trên địa bản tỉnh. Đồng thời phối hợp với các cấp các ngành thực hiện một số phong trào lớn: Đền ơn đáp nghĩa, xáo đói giảm nghèo… phấn đấu tỉnh Ninh Bình giàu đẹp, phát triển.
Nhìn chung công tác giáo dục chính trị đối với cán bộ Đảng viên cơ sở trong tỉnh đã chuyển biến một cách mạnh mẽ trong nhận thức tổng quát của quá trình chỉ đạo các cấp uỷ Đảng,  các ngành các cấp từ tỉnh đến cơ sở tạo ra sự nhất quán trong chỉ đạo nội dung và phương pháp thực hiện. Chính vì vậy cán bộ Đảng viên phấn khởi tiếp nhận, và đồng tình ủng hộ chủ trương, đường lối của Đảng, thừa nhận và đánh giá cao các thành tựu của công cuộc đổi mới trên các mặt đời sống, kinh tế, chính trị, xã hội. Đại đa số cán bộ Đảng viên hăng hái thực hiên các chủ trương chính sách của nhà nước và địa phương, vững tin vào con đường đi lên chủ  nghĩa xã hội và sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, để xây dựng một đất nước văn minh giau đẹp thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Đến nay toàn tỉnh có 46,915 Đảng viên ( tăng 239 Đảng viên co với năm 2003 trong đó Đảng viên là người dân tộc 4,85 bằng 1,04% Đảng viên có đạo;1052 bằng 2,25% ). Tổng số cán bộ lao động chủ chốt các cấp tỉnh đến cơ sở là 832 đồng chí, trong số cán bộ diện ban thường vụ, bí thư, phó bí thư, chủ tịch, hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân huyện, thị xã:
Trình độ chuyên môn        Trình độ lý luận
+ Thạc sỹ: 5 đồng chí bằng 4,7%                + Cử nhân: 58 đồng chí bằng 54,72%
+ Đại học: 99 đồng chí bằng 93,4 %       + Cao cấp: 26 đồng chí bằng 24,53%
+ Cao đẳng: 2 đồng chí bằng 1,9 %       + Trung cấp:22 đồng chí bằng 20,75%

Từ năm 2001 đến nay đã cử được 2144 lượt cán bộ đi đào tạo các lớp đại học, trên đại học,  trung cấp về chuyên môn. 1868 lượt cán bộ đi đào tạo củ nhân, cao cấp trung cấp lý luận chính tri và 12024 lượt cán bộ đi bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước, công tác xây dựng Đảng, công tác vận động giai cấp và kiến thức quốc phòng.
Để chủ  động thực hiện được kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,Trung Ương đã quan tâm sắp xếp lại hệ thống các cơ sở đào tạo thuộc tỉnh quản lý. Đầu tư đội ngũ giáo viên, phát triển cơ sở vật chất và kinh phí đào tạo bồi dưỡng đáp ứng yêu cầu đặc thù bồi dưỡng cán bộ trước mắt và lâu dài. Sáu tháng đầu năm 2004 toàn tỉnh đã mở được 11 lớp bồi dưỡng cho 1300 đối tượng cảm tình Đảng, kết nạp được 839 Đảng viên mới, trong đó có 494 là nữ chiếm 53%, 555  là đoàn viên thanh niên chiếm 65%, 10 Đảng viên mới là người dân tộc thiểu số và 7 Đảng viên là người theo đạo thiên chúa. Về  trình độ có 738 đồng chí mới tốt nghiệp Trung học phổ thông chiếm 88%; 293 đồng chí mới có trình độ cao đẳng, đại học chiếm 35%. Đã xáo được3/5 Đảng viên xan trăng Đảng viên.  Nâng cao chất lượng công tác giáo dục lý luận chính trị với việc hình thành năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ cơ sở ở Ninh Bình hiện nay là một việc làm hết sức quan trọng và cần thiết. Bởi chỉ có tư duy lý luận và tư duy khoa học, thì mới hạn chế, khắc phục được lối tư duy kinh nghiệm, theo lối mòn.
Bước vào thời kỳ đổi mới  và những năm gần đây, tầm nhìn của đội ngũ cán bộ nhất là các đồng chí lãnh đạo ở cấp tỉnh, đã mở rộng và sâu hơn. Tầm nhìn ấy, trước hết là có sự đột phá đổi mới tư duy do Đảng phát động, đồng thời do trình độ học vấn được nâng cao hơn và có sự thông tin nhiều chiều,  không chỉ là thông tin gián tiếp mà cả thông tin trực tiếp từ thực tế ở nhiều nơi trong và  ngoài nước, đặc biệt là đời sống thực tiễn đơn vị, địa phương trong tỉnh.
Có thể khẳng định trong thời gian qua thông qua những gì đã học, những lớp bồi dưỡng lý luận chính trị  đã trang bị cho cán bộ Đảng viên cơ sở những tri thức quý báu, rất cần thiết, cần thiết cho công tác. Đồng  nhất quá trình qua những năm chương trình giáo dục lý luận chính trị này đội ngũ cán bộ cơ sở phần nào khắc phục được lối tư duy kinh nghiệm của hình thành năng lực tư duy lý luận. Đó là năng lực tư duy tổng hợp, kết quả, phương pháp tư duy khoa học, cấp trừu tượng và tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Năng lực xử lý tình huống được nêu lên.Có được các thành tuỵ cơ bản  trên đây là nhờ:
Các cấp uỷ cùng các ban ngành đoàn thể trong tỉnh luôn luôn coi trọng giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ Đảng viên, bên cạnh đó là: Sự tu dưỡng, phấn đấu học tập, rèn luyện của bản thân mỗi cán bộ, Đảng viên và sự ủng hộ nhiệt thành của giai cấp nhân dân.
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân
- Một số các cấp Đảng uỷ vẫn nhân thức đầy đủ tâm quan trọng của công tác giáo dục chính trị cho cán bộ Đảng viên, một số nơI có quan tâm đến nhưng chỉ mang tính tình thế, chiếu lệ.
- Công tác giáo dục chính trị tư tưởng chưa kiên quyết phê phán và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội thực dụng, những quan điểm mơ hồ sai trái.
- Trong đội ngũ cán bộ cơ sở  một bộ phận vẫn còn nặng nề lối tư duy mang tính kinh nghiệm vì vậy khi giải quyết công việc còn mang tính chủ quan, duy y chí.
  Cũng phải thấy một số mặt trên đây là do :
+ ở cơ sơ cơ cấu kinh tế  vẫn còn mang nặng tính tự cấp tự  túc chủ yếu vẫn là cây lúa nước.
+ Do tan dư phong kiến,  chế độ gia trưởng nghìn năm còn lưu lại.
+ Do ảnh hưởng cách nghĩ,  cách làm của mấy chục năm ở thời bao cấp.Hơn nữa
+ Do điều kiên địa lý chủ yếu sinh ra và phát triển nên và lớn lên ở  vùng nông nghiệp kinh tế còn kém phát  triển, ít có điều kiện tiếp thu giao lưu  với các vùng miên khác.
+  Do những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường.
* Nguyên nhân chủ quan:
+  Do ảnh hưởng của tàn dư của chế độ phong kiến, vì vậy ý thức về tâm lý, tính gia trưởng còn tồn tại.
+  Một bộ phận cán bộ, Đảng viên chưa tâm sự say xưa trong học tập, nghiên cứu lý luận chính trị,  chưa chú trọng đến công tác tổng kết thực tiễn đúc rút hình thành kinh nghiệm quí báu cho bản thân và cho cả tập thể, chưa quan tâm đến vấn đề đội mới tư duy nhất là tư duy lý luận.


Chương III: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả côn tác giáo dục lý luận chính trị nhằm hình thành tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ cơ sở ở Ninh Bình hiện nay

3.1. Thiết lập điều kiện  xã hội kết quả thuận lợi cho việc nâng cao hiệu quả giáo dục chính trị với việc hình thành tư duy lý luận đội ngũ cán bộ Đảng viên  cơ sở ở tỉnh Ninh Bình
Những điều kiện xã hội kết quả đó là môi trường sống, điều kiện kinh tế, chính trị văn hoá, xã hội, tồn tại xã hội nói chung. Thực chất biện pháp nhằm tạo ra môi trường mang tính tư tưởng các để giáo dục tư tưởng bởi vì “ Những con người là sản phẩm của hoàn cảnh thì cần phải tạo ra sản phẩm có tính người” Những điều kiện xã hội kết quả ấy tạo khả năng thuận lợi cho việc tiến hành các công tác giáo dục lý luận chính trị,  tạo điều kiện nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị với việc hình thành tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ Đảng hiện nay.
3.2. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với công tác giáo dục  lý luận chính trị:
Nâng cao trách nhiệm của cấp uỷ Đảng, trước hết là trách nhiệm của đồng chí bí thư cấp uỷ, đồng chí thủ trưởng cơ quan, đơn vị lãnh đạo, chỉ đạo quản lý công tác tư tưởng. Thực hiện chế độ bàn dao định kỳ, đột xuất trong các ngành  trực tiếp hoạt động trên mặt trận tư tưởng văn hoá theo qui chế làm việc. Coi trọng nắm bắt tư tưởng bằng các hình thức phù hợp ( như phát phiếu thăm dò, toạ đàm đối thoại trực tiếp trên cơ sở đó phân tích dự báo diễn biến tư tưởng để có biện pháp sử lý kịp thời các tình huống tư tưởng. Phát triển kiểm tra  các hoạt động tư tưởng văn hoá ơ cơ sở, ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực trong hoạt động kinh doanh văn hoá, kiên quyết sử lý những  vi phạm pháp luật trên lĩnh vực này.
Nêu cao vai trò gương mẫu của cán bộ, Đảng viên là một giải pháp quan trọng trong công tác chính trị tư tưởng. Nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình của Đảng. Các lực lượng làm công tác tuyên truyền chính trị tư tưởng. Đặc biệt là lực lượng có chức năng đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị ngoài việc truyền bá nội dung tri thức chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng HCM, quan điểm, đường lối chính  sách của Đảng cần chú trọng đến việc giáo dục sâu ý thức hệ của phương pháp tư duy lý luận trên nền tảng khoa học Mác – Lênin.
3.3. Nâng cao đội ngũ cán bộ làm công tác giáo dục lý luận chính trị
Đối với đội ngũ giảng viên  lý luận chính trị phải là người có tính Đảng cao là người chiến sỹ trên mặt trân tư tưởng. Lẽ sống của giảng viên là say sưa  trau rồi kinh nghiệm trong thực tiễn để truyền  bá thế giới quan Mác - Lênin và đường lối quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước trong cán bộ Đảng viên nhân dân. Đấu tranh không khoan nhượng với những tư tưởng sai lầm và phản động. Việc bảo vệ, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm của Đảng vào giai cấp vừa là nghĩa vụ, vừa là vinh dự của người giảng viên. Đồng thời thời đòi hỏi người  giảng viên phải có vốn sống, vốn hiểu biết sâu, giỏi một chuyên ngành, biết và làm được nhiều ngành, cần chú ý lựa chọn những cán bộ có khả năng viết, nói, biết đối thoại. Giảng viên lý luận chính trị phải có nhiệm vụ giảng dạy, nghĩa là có phương pháp sư phạm tốt, vì giảng viên dạy lý luận chính trị khô khan đôi khi trở nên cứng nhắc. Do vậy, có phương pháp truyền đạt tốt thì trong khi học tập nghiên cứu (với nội dung, biết tổng kết thực tiễn để bố trí làm công tác tư tưởng) mới tiếp thu dễ dàng hơn.
3.4. Đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục lý luận chính trị trong học tập để hình thành tư duy lý luận
Đối với người học tập cần phải khắc phục thói tư duy kinh nghiệm, tự biện chỉ quanh quẩn trong các thuật ngữ, kinh nghiệm quen thuộc xa rời  sự sống động của chính sách. Chủ nghĩa Mác - Lênin là một khoa học, lý luận đó dựa trên một cấu trúc hoàn chỉnh, vững chắc. Mỗi yếu tố, mỗi bộ phận hợp thành cấu trúc có một hệ thống khai niệm,  phạm trù, qui luật nhất định. Tư duy lý luận nhất thiết phải nhất thiết nắm lấy các phương tiện logic, tức là hệ thống kinh nghiệm, phạm trù, qui luật để suy nghĩ.
Phương pháp rèn luyện tư duy lý luận chủ yếu là gắn lý luận với thực tiễn. Dùng lý luận bao gồm cả cương lĩnh, phương hướng chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước làm căn cứ ban đầu để phân tích thực tiễn. Đồng thời  đến lượt nó thực tiễn  cơ bản là hiệu quả kinh tế – xã hội của hoạt động chung, làm tiêu chuẩn kiểm nghiệm lý luận và hoàn thiện lý luận theo V.I. Lênin, con đường của nhận thức là: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Mở rộng hình thành đối thoại trong hoạt động tuyên truyền giáo dục tăng cường công tác nắm bắt, dự báo tình hình, diễn biến tư tưởng trong xã hội.
3.5. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất – tinh thần cho nhân dân tỉnh Ninh Bình
Hồ Chí Minh Khẳng định: “…Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát khỏi sự bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và một cuộc sống hạnh phúc” ( Hồ Chí Minh toàn tập nhà xuất bản chính  trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 10, trang17).
Ninh Bình đang đẩy mạnh phát triển khoa học kỹ thuật theo hướng công nghiệp  - nông nghiệp – dịch vụ từng bước công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn đẩy mạnh sự phát triển văn hoá - xã hội nâng cao đời sống vật chất tinh thần.
3.6. Nâng cao hiệu quả công tác thông tin, truyền bá công tác giáo dục lý luận chính trị qua các phương tiện thông tin đại chúng,báo, đài, phát thanh, truyền hình tỉnh và đài thanh cơ sở
Giao dục lý luận chính trị phảI toàn diện đảm bảo tính hệ thống bằng những hình thành khác và phương tiện thông tin đạI chúng là một hình thức quan trọng góp phần nâng cao khả năng nhạy bén của người cán bộ Đảng viên.  Qua đó thúc đẩy sự phát triển năng lực tu duy  lý luận trong tình hình mới. Các cấp uỷ của chính quyền gồm có những chủ trương chính  chính sách để khai thác thế mạnh của các đàI phát thanh truyền hình trong tỉnh và cơ sở tăng cường đầu tư đầu tư có hiệu quả cơ sở vật chất và phương tiện kỹ thuật, trang bị tạo điều kiện cho  các đàI  phát thanh truyền hình tăng thời lượng  một cách thích đáng cho việc tuyên truyền giáo dục lý luận chính trị.
3.6.1.Phát huy tính tích cực, hoạt động sáng tạo lý luận chính trị, sự nỗ lực cao của người cán bộ Đảng viên
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một  mẫu hình tiêu biểu nhất của người cách mạng, người cộng sản đã để lại cho chúng ta tấm gương tự học, học bất kỳ lúc nào, học suốt đời, không ngừng rèn luyện nâng cao năng lực, bản lĩnh, phong cách tư duy và  trí tuệ với năng lực tổ chức thực tiễn tuyệt vời. Cần hiểu được điều đó để chúng ta học tập rèn luyện trau dồi lý luận phát triển tư duy, trí tuệ và tư tưởng của mình để phục vụ sự nghiệp cách mạng hiện nay.
“ Học, học nữa, học mãi, học qua thực tiễn, học qua nghề nghiệp bằng sự nỗ lực của mình chắc chắn người cán bộ, Đảng viên  sẽ có điều kiện nâng cao trình độ lý luận chính trị của mình.
3.7. Phát huy các phong trào thi đua tổng kết thực tiễn
Tổ chức tốt phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa trong hệ thống chính trị ( Đảng, chính quyền, mặt trân và các đoàn thể ) tạo không khí trao đổi sôi nổi và liên tục trong các cơ sở. Việc tổ chức các phong trào thi đua này nhằm nâng cao hiệu quả lý luận chính trị  để hình thành năng lực lý luận của cán bộ Đảng viên được tiến hành một cách chủ động, tư đó nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học lý luận chính trị.
Tổng kết thực tiễn rút ra những bài học quí báu  là một biện pháp cơ bản của hoạt động lý luận nói chung và hoạt động và hoạt động tư duy nói riêng. Bởi vì xét cho cùng lý luận  là từ thực tiễn khái quát lên. Tổng kết  thực tiễn là biện pháp hiệu quả chống các khuynh hướng cơ hội xét lại giáo điều,  bảo thủ trong tư  duy lý luận. Chú trọng khâu tổng kết thực tiễn đúc rút ra nhưng bài học thành công quí báu là con đường cơ bản để phát triển tư duy lý luận.
Kết luận
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước bước đầu đã có nhiều thành công. Những thành quả đầu tiên gặp hái được đã khẳng định sự lao động của Đảng là hết sức đúng đắn đóng góp một phần vào thắng lợi đó phải kể đến vai trò của công tác tư tưởng, đặc biệt là  hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị trong thời gian qua. Hiệu quả của công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ Đảng viên trong bối cảnh hiện nay hiện nay là rất quan trọng khi tình hình thế giới có nhiều biến động, các thế lực đang ra sực chống phá sự nghiệp đổi mới của dân tộc ta; chính điều đó chúng ta phải đặt hiệu quả của công tác giáo dục chính trị lên hàng đầu để không nhằm mục đích làm cho cán bộ, Đảng viên tin vào đường lối của Đảng, niềm tin khoa học vào sự tất thắng của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ, dân tộc đã lựa chọn.
Để hình thành tư duy lý luận cho cán bộ cơ sở hiện nay phải đòi hỏi phải trải qua hai bước thử thách: Bước một là tích cực học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững hệ thống phạm trù thuật ngữ, tiếp thu cho được hệ thống tri thức nhất định về tự nhiên, xã hội và tư duy… Bước hai là quá trình rèn luyện trong thực tiễn, rèn luyện phương pháp luận,rèn luyện phong cách, tác phong xem xét, nghiêm cứu những vấn đề cuộc sống đặt ra, tự bồi dưỡng tình cảm cách mạng, qua  thực tiễn tiếp thu những lý tưởng hình thành ngay trong cuộc sống thực tiễn. Qua thực tiễn nghiên cứu vấn đề khảo sát hiệu quả giáo dục lý luận chính trị với việc hình thành tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ hiện nay yêu cầu:
Một là: Hiệu quả công tác giáo dục chính trị phải luôn luôn đứng vững trên nền tảng tư tưởng Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,  kiên định mục tiêu đường lối dân tộc, chủ nghĩa xã hội và sự lãnh đạo của Đảng. Bám sát những quan điểm cơ bản của đường lối chính sách giữ vững niềm tin vào sức mạnh chân lý của hệ tư tưởng cách mạng của khoa học, vào tính đúng đắn của đường lối và sự lãnh đạo của Đảng.
Hai là: Kết hợp hiệu quả công tác giáo dục chính trị với công tác giáo dục văn hoá, khoa học kỹ thuật, nhiệm vụ, bảo đảm cho các mặt cho các mặt giáo dục đó phát triển cân đối.
Ba là: Kết hợp giáo dục một cách có hệ thống những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin với việc giáo dục những vấn đề thời sự, cuộc sống đang đặt ra trong thực tiễn.
ốn là: Kết hợp việc nâng cao những kiến thức lý luận chính trị, kinh tế với việc nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, phát huy tác dụng của việc phê bình và tự phê bình của cán bộ cơ sở.
Năm là: Kết hợp giáo dục chính trị của Đảng với việc giáo dục trong giai cấp nhằm làm sao mọi cán bộ, Đảng viên, giai cấp đều nắm vững lý luận Mác – Lênin, quan điểm đường lối của Đảng.
Sáu là: Yêu cầu của hiệu quả công tác giáo dục chính trị là đặc biệt quan  tâm đến đội ngũ giảng viên cả về bản lĩnh, phẩm chất và năng lực. Đồng thời phải kết hợp  đòi hỏi hiệu quả chất lượng của đội ngũ giảng viên đi đôi với thực hiện chế độ đãi ngộ thảo đáng  phù hợp với  điều kiện chung của cả nước.
Các giải pháp trên cần phải được thực hiện  một cách đồng bộ trong một thể thống nhất bổ xung hỗ trợ cho nhau. Việc thực hiện đồng bộ các giai cấp này chẳng những góp phần qui định vào việc nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận chính trị hình thành năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ Đảng viên mà còn phải góp phần xây dựng phát triển xã hội của tỉnh Ninh Bình xứng đáng với vị trí và vai trò của mình trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoa đất nước.




DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban tư tưởng văn hoá Trung Ương: Nâng cao chất lượng công tác tư tưởng văn hoá góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nhà xuất bản công tác quốc gia, Hà Nội,1997, tập 1
3. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung Ương (khoá VIII ), nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
3. Tiến sỹ: Lương Khắc Hiếu, Nguyên lý công tác tư tưởng, Học viên chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, phân viên báo chí – Tuyên Truyền, Hà Nội, 2004.
4. V.I. Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản tiến bộ,1975,tập sáu trang 30 đến 32.
5. Nghị quyết Trung Ương 6 (lần II): “ Đổi mới công tác giáo dục trong Đảng và trong xã hội về công nghiệp hoá hiện đại hoá và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước”.
6. Hồ Chí Minh: Về công tác tư tưởng, nhà xuất  chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995,tập 2, trang167.
7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 2, trang 2 đến trang 268.
8. Quyết định 37/QĐ – TW ngày 29- 8 – 1995 của ban bí thư Trung Ương (Khoá VII).



MỤC LỤC
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3. Phương pháp và phạm vi nghiên cứu
4. Kết cấu đề tài
Nội dung
Chương I: Một số lý luận chung về hiệu quả giáo dục lý luận chính trị với việc hình thành tư duy lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đối với cơ sở ở tỉnh Ninh Bình hiện nay
1.1. Hiệu quả giáo dục chính trị – khái niệm và tiêu chí
1.1.1. Khái niệm hiệu quả giáo dục lý luận chính trị
1.1.2. Tiêu chí đánh giá hiệu quả giáo dục lý luận chính trị
1.2. Tư duy lý luận và con đường hình thành tư duy lý luận
1.3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả giáo dục lý  luận đạo đức với việc hình thành tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ đảng viên cơ sở hiện nay
1.3.1. Vai trò của vệic nâng cao hiệu quả giáo dục lý tưởng chính trị với việc hình thành tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ - Đảng viên ở cơ sở hiện nay
1.3.2. Vai trò của hoạt động giáo dục lý luận chính trị với việc hình thành tư duy chính trị cho cán bộ đảng viên cơ sở
Chương II: Thực trạng hiệu quả giáo dục lý luận chính trị với việc hình thành tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ đảng viên cơ sở ở tỉnh Ninh Bình hiện nay
2.1. Một số đặc điểm về tỉnh Ninh Bình
2.2. Tình hình công tác giáo dục lý luận chính trị với việc hình thành tư duy lý luận chính trị cán bộ đảng viên ở Ninh Bình hiện nay
2.2.1. Thành tựu và nguyên nhân
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân
Chương III: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị nhằm hình thành tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ cơ sở ở Ninh Bình hiện nay
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo